Được mệnh danh là “thần đồng thơ” từ năm 8 tuổi, thơ Trần Đăng Khoa được in đi in lại liên tục, trong đó có những bản kèm hình vẽ minh họa bắt mắt. Văn xuôi của ông cũng được hâm mộ đặc biệt, với Đảo chìm, Chân dung và đối thoại, Hầu chuyện thượng đế… Mấy chục năm qua, ông được nhiều người Việt Nam, trong và ngoài nước mến mộ, coi như bạn bè, người thân, người thày, người cố vấn để giao lưu, hỏi han, trao đổi về thơ, về văn chương. Ông cũng liên tục được nhiều báo và tạp chí mời giữ những chuyên mục, cầu nối với bạn đọc.
Cuộc đời Trần Đăng Khoa cũng không hiếm những lần cổ tích. Bác Mạnh Sinh, thợ cắt tóc ở thị xã Lạng Sơn, thích làm thơ và rất thích thơ Trần Đăng Khoa. Bác đạp xe từ trên ấy về tận thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, Hải Dương, thăm nhà thơ tí hon bằng được. Năm 1972, bác nghe đồn Trần Đăng Khoa qua đời vì bệnh thiên đầu thống. Bác gửi cho bố mẹ nhà thơ câu đối viếng, cùng năm bài thơ khóc và 10 đồng - thu nhập cắt tóc dạo của bác cả tháng trời. Mãi năm 1996, mới có dịp lên thị xã Lạng Sơn, Trần Đăng Khoa cố tìm gặp bác nhưng không được. Sau đó, trong một buổi giao lưu với học sinh một trường, ông biết con dâu bác và tới thăm gia đình bác, rồi ra viếng mộ bác.
Mùa giáp hạt năm 1974, Trần Đăng Khoa có bài thơ Bài hát gọi cây lúa, đăng trang nhất báo Nhân Dân. Sau đó, bác sĩ Phạm Văn Đoàn ghé qua nhà Khoa. Không tự giới thiệu, bác sĩ chỉ ân cần trò chuyện với bố mẹ nhà thơ, thấy gia cảnh nghèo. Mấy hôm sau, mẹ nhà thơ được tỉnh cứu trợ 13 cân gạo…
Bác Hồ Thiện Ngôn, nhà thơ kiêm cán bộ làm việc ở Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (nay là Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) về ở nhà Trần Đang Khoa mấy tháng, một phần để xem tài thơ cậu bé. Bằng chiếc xe đạp cà khổ, bác đèo Khoa tới thăm mộ nữ anh hùng kháng chiến chống Pháp Mạc Thị Bưởi, sau đó, nhà thơ viết bài Em dâng cô một vòng hoa, 1968. Bác kể Khoa nghe chuyện một bạn ở phố sơ tán về thôn quê - thời không quân Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc, lỡ tay đánh vỡ chiếc phích đựng nước sôi, của quý hiếm thời ấy, của bà nhưng được bạn ở quê nhận lỗi thay. Bà không trách mắng, nhưng cả đội thiếu niên tiền phong rủ nhau đi kiếm củi, bán lấy tiền, mua phích chợ đen, giá cắt cổ, để đền, nhưng bà tặng lại đội. Từ câu chuyện này, Trần Đăng Khoa tìm hiểu nhiều chuyện nữa ở làng quê, để năm 1969, viết thành trường ca đầu tiên - trường ca Làng quê. Bác Hồ Thiện Ngôn còn đưa thi sĩ nhí tới thăm gia đình Mạc Thị Bưởi, bà mẹ của nữ anh hùng đã 75 tuổi rồi, vẫn hằng ngày mò cua bắt tép, chăn trâu cắt cỏ. Chuyện chiến đấu của làng quê thuở trước, chuyện hy sinh anh dũng của người nữ du kích xưa…, do bác bí thư chi bộ thời Mạc Thị Bưởi kể lại lay động mạnh mẽ tâm hồn Trần Đăng Khoa. Nhà thơ thấy phải sáng tác một tác phẩm dài hơi xứng tầm. Trần Đăng Khoa bỏ công tìm hiểu qua nhiều nguồn về cuộc kháng chiến chống Pháp, trăn trở và thai nghén. Cuối cùng, năm 1974, Trần Đăng Khoa hoàn thành trường ca Khúc hát người anh hùng khiến độc giả “khâm phục hơn và kinh ngạc nữa, vì khi đó, anh mới 16 tuổi mà đã viết khủng khiếp như vậy”. Đây là một trong những tác phẩm mà Trần Đăng Khoa ưng ý hơn cả, với những câu thơ để đời: “Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”; “Người ta đến lúc hiểm nghèo/Hoặc vằng vặc sáng, hoặc heo hút tàn”…
Thần đồng thơ Trần Đăng Khoa những năm là học sinh - Ảnh: Tư liệu
Trần Đăng Khoa gần gũi với tất cả, vì người đọc luôn tìm thấy hồn quê trong thơ ông. Hồn quê bao giờ cũng tiềm ẩn trong tâm khảm mỗi người Việt Nam. Trong văn chương Việt Nam, hiếm khi, làng quê, nhất là ở miền Bắc, được miêu tả đầy đủ, kỹ lưỡng, đa chiều và có hồn đến thế. Mọi thứ xung quanh từ gần đến xa đều lần lượt hiện ra trong thơ của cậu bé 8 tuổi. Trong thơ Trần Đăng Khoa, con vật, đồ vật, thiên nhiên hòa vào thế giới con người, chúng tạo thành những bộ phận hữu cơ và bình đẳng với thế giới ấy, trong vũ trụ sinh tồn chung, chỉ có yêu thương và trân trọng. Điều kỳ diệu này trong thơ, đúng là hiếm thấy. Cọc rêu đáy ao, con giun, con dế, con chó, con trâu, hương bưởi, hương nhãn, rặng duối, làn khói, tiếng máy cày, tiếng gà gáy, con bướm vàng, ngõ nhỏ, sông quê, chú bù nhìn rơm, mặt trời, trăng sao… tất thảy là bè bạn, là ruột thịt, quây quần, vui buồn, lo lắng, ưu tư, hy vọng… với con người. Hầu hết xuất hiện không chỉ một lần, mỗi lần lại hiện lên với dáng vẻ hoặc tâm tư khác trước và khác biệt. Ví dụ, chú dế mèn, khi tự hào về sức mạnh của những anh bộ đội Cụ Hồ thì ở bên Trận địa bỏ không, “dế co càng đạp cỏ xanh/cất cao giọng gáy một mình ri ri”, khi Gửi bạn Chi lê, bày tỏ niềm lạc quan về chiến thắng tất yếu của quân dân Việt Nam đối với cuộc chiến tranh phá hoại hung tàn của đế quốc Mỹ, thì vẫn cứ ung dung vuốt râu ở bờ tre làng… Ông trăng trong đêm Trông trăng thật hoạt bát. Lúc đầu, trên cao tít, ông nhìn lũ trẻ dưới đất, cố ý khoe với chúng bộ mặt tròn của mình. Ông nhoẻn miệng cười, khi nhìn thấy xôi, vì ông cũng khoái xôi đó. Lúc trẻ nhảy, trăng cũng nhảy theo. Khi trẻ vào nhà đi ngủ, trăng muốn rủ trẻ đi chơi, nên cứ thập thò ngoài cửa… Mặt trời xem chừng gần gũi con người hơn nữa. Để có mùa thu cho họ Khi mùa thu sang, “Mặt trời lặn xuống bờ ao”. Để trêu cậu bé câu cá “mát tay” (Câu cá), ông lặn xuống đáy ao, đớp mồi ngậm mãi, cậu quyết giật bằng được, đến mức ngã nhào…
Dưới “con mắt thơ” (chữ của Đỗ Lai Thúy) của cậu bé 8, 9 tuổi ở Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương, sự hòa đồng và tương tác ấy là nguồn lực, chất kết dính và sức mạnh tồn tại cũng như phát triển của vũ trụ. Những nguyên lý chung cơ bản của vũ trụ đó là: mọi sinh vật, hữu cơ và vô cơ, ít nhất là động thực vật và con người, đều được quyền sống; tất cả sống chung một cách bình đẳng, không bên nào được coi rẻ hay xâm phạm tới quyền tồn tại của bên nào hoặc nói chung là của xung quanh; mỗi thực thể đều phải tự trọng và tôn trọng đồng thực thể, mọi thực thể đều phải biết nhường nhịn nhau và góp phần xây dựng vũ trụ chung lành mạnh và đáng sống; con Người là quý nhất trong vũ trụ. Giá trị này chỉ trọn vẹn chừng nào các tiêu chí nêu trên được thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để. Thơ Trần Đăng Khoa tổng kết quy luật muôn thuở ấy.
Bài Hoa dại hay Cây bàng mùa đông cho thấy thiên nhiên yêu thương và tận tình với con người biết chừng nào. Ngược lại, qua Cây bàng, Mùa đông và cây sầu đông, con người phải cậy nhờ thiên nhiên để yêu thương và bộc lộ những nỗi niềm khó tỏ. Con người là trung tâm của vũ trụ - chủ đề cốt lõi này được thể hiện qua nhiều tác phẩm, như Hoa duối, đặc biệt là Cây đa, với những câu thơ vào loại đẹp nhất của thi sĩ họ Trần: “Đủng đỉnh đàn bò về/ Lông hồng như đốm lửa”, và Mưa, với hình ảnh kết không thể điển hình hơn được nữa: “Bố em đi cày về/ Đội sấm/ Đội chớp/ Đội cả trời mưa…”. Sống nghĩa là làm chủ đời mình, chống chọi và hóa giải mọi gian nan ngáng trở, để sống đúng là con người. Thấu tỏ được điều cốt lõi này không hề dễ. Nhưng thấu tỏ rồi, thi nhân cầm chắc bộc lộ được mọi sắc thái tư tưởng và tình cảm của con người, của nhân dân. Trần Đăng Khoa đã đạt tới tầm vóc ấy. Thơ ông giản dị, xúc động, ám ảnh, là chìa khóa để mở vào và khám phá bất tận vũ trụ thi ca mênh mông. Viết giản dị mới thực khó. Thơ Trần Đăng Khoa, một lần nữa, chứng minh rằng đối với một hồn thơ đích thực, bất cứ cái gì trong đời cũng có thể thành thơ, bởi cảm nhận nhân bản tột cùng sẽ biết lảy ra chất thơ và biết “biểu đạt” phát hiện ấy “cực thơ”. Con giun, con dế thành thơ đã đành. Đến như bầu trời hè đầy sao và mặt đất hun hút giếng, ban đêm thành hai con mắt, của Trời và của Đất, đau đáu nhìn nhau, như biểu tượng của sự hòa hợp tự nhiên của vũ trụ - cũng thành thơ mới kỳ diệu (bài Con mắt). Xúc động thực chất là cao trào cảm xúc, từ thăng hoa của nhiều cộng hưởng, trong đó có cộng hưởng của khoái cảm thẩm mỹ nơi độc giả và vẻ đẹp mới lạ của câu chữ và cấu tứ bài thơ - vẻ đẹp chỉ có được nhờ lối diễn đạt điêu luyện, thích hợp cao độ với sự thật của chuyện đời và suy tư cao thượng về cõi thế.
Những áng thơ thực sự là thơ bao giờ cũng là những chiêm nghiệm đọng lại và chấn động mãi trái tim, khối óc người đọc. Ví dụ trong bài Mưa, Ghi chép về ngọn đèn dầu của Trần Đăng Khoa, có thể không hé lộ bằng những câu triết lý, cũng có thể được giãi bày bằng những câu như châm ngôn, tục ngữ. Công chúng hẳn sẽ không hết kinh ngạc về những đúc kết quá sớm của Trần Đăng Khoa: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương” (Khúc hát người anh hùng); “Trái đất mỏng manh và đáng thương biết mấy/ Trước những mưu mô, toan tính của con người” (Matxcơva, mùa đông năm 1990). Rồi “Cậu biết không, tớ chỉ sợ người thôi/ Nhất là khi người biến thành cá mập” (Ghi ở Đảo Chìm)… Phù hợp với “luật tiến hóa”, thơ Trần Đăng Khoa đi từ trực quan sinh động (Đám ma bác giun, Ò ó o…, Hạt gạo làng ta, Mưa,…) tới tư duy trừu tượng (Trước đá Mỵ Châu, Qua Bôrôđinô, Qua Xuzan, Đợi mưa trên đảo Sinh tồn…). Ông làm “thơ trí tuệ” rất sớm, có lẽ từ bài Nói với cháu, nhân ngày ký Hiệp định Paris, 27-3-1973, với luật đời khắc nghiệt: tuổi xuân một đi không trở lại. Bài Gửi bác Trần Nhuận Minh như một đúc kết nhiều chiêm nghiệm của Trần Đăng Khoa về cõi đời và văn chương nghệ thuật. Văn chương chỉ là phương tiện, cần đa dạng, phong phú. Văn chương cốt thiết thực, giúp cho mọi chốn được bình yên, chan chứa nghĩa tình… Làng quê là trên hết: “Đất trời thì chật hẹp/ Làng quê thì mênh mông”. Rất nhiều lần, thơ Trần Đăng Khoa thành công khi chạm tới nghịch lý ấy, một lực hút của thơ, một nhu cầu giải tỏa của bạn đọc. Nghịch lý vừa nêu, ông đã đề cập chính xác và cảm động trong bài Thư viết trên cửa sổ máy bay. Vũ trụ chỉ có một thiên đường. Đó là làng quê, nơi mẹ là bà tiên, nơi tình người thống trị… Đây là tư tưởng bao trùm của thơ Trần Đăng Khoa. Chắc chắn nhiều người cứ mãi sửng sốt về hiện tượng thơ Trần Đăng Khoa. Cậu bé nơi thôn quê nghèo đói sao chín chắn quá. Tiếng thơ ấy ra đời đúng lúc, để ghi lại dấu ấn của thời đại phi thường trong lịch sử nước nhà.
Cái chín chắn ấy là chín chắn bao đời của cả dân tộc, được truyền lại cho Trần Đăng Khoa, chủ yếu qua thân mẫu. Vừa qua đời ngày 6-2-2020 ở tuổi 102, cụ Trần Thị Sen không biết chữ, nhưng thuộc lòng Truyện Kiều và rành rẽ những điều thiết cốt ở đời. Cụ nhắc nhở con cháu không được bẻ ngọn cây non, bắn chim đang bay, đập gãy chân gà chó - làm thế sau dễ ác với đồng loại. Ngày Tết, cụ bảo con cháu quét vôi các gốc cây, coi như sắm áo mới cho chúng. Gia súc gia cầm, theo chỉ dạy của cụ, cũng được con cháu cho ăn đầy đủ các món của cỗ Tân xuân, không kém con người. Ngày bà ngoại Trần Đăng Khoa qua đời, cụ bảo nhà thơ mang hàng chục mảnh vải trắng nhỏ, đeo cho tất cả cây cối trong vườn ngoài ngõ. Thế là chúng được để tang bà đấy… Lẽ đời chí cốt của mẹ là nguồn lực vô tận để Trần Đăng Khoa thẩm thấu cuộc sống và nghệ thuật, bắt đầu từ việc đọc tủ sách quý báu của anh trai - nhà thơ Trần Nhuận Minh, với những Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Hoài Thanh, Sê-khốp, Stăng-đan… cho tới hiểu biết những vẻ đẹp khác nhau của thế giới, như huyền thoại mặt trời cưỡi xe qua núi, trẻ em Pháp hay hát vòng tròn… Được “sáng mắt sáng lòng” nhờ mẹ, Trần Đăng Khoa luôn thấm đẫm lòng yêu người yêu đời, quan sát chăm chú, đồng hóa nhuần nhuyễn, sáng tạo được nhiều tác phẩm giá trị. Những tác phẩm vinh danh không chỉ đồng quê mà cả đất nước chúng ta.
Tác giả: Nguyễn Văn Quảng
Nguồn: Tạp chí VHNT số 446, tháng 12-2020