Đàm Xá là quê hương của thiền sư Nguyễn Minh Không. Về mặt đời thực, ông sống qua TK XI và XII (1065-1144), nhưng về mặt văn hóa và tín ngưỡng, huyền tích, huyền thoại, danh tiếng của ông còn mãi với thời gian. Bài viết này góp một cách giải mã không gian văn hóa vùng Đàm Gia Loan, Đàm Xá, Điềm Giang xưa, nơi được biết đến với câu “Đại Hữu sinh vương, Điềm Giang sinh thánh” (1), nay nằm trên địa phận của hai xã Gia Tiến và Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Vùng đất Ninh Bình là phần kéo dài và phân tán về phía Đông của một dải núi đá vôi đồ sộ thuộc phần chân của dãy Himalaya vươn ra biển Thái Bình Dương. Do vậy, ở Ninh Bình, còn nhiều dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, như các dãy núi đá vôi trải dài ở huyện Nho Quan, Hoa Lư, Gia Viễn, Yên Mô và thành phố Tam Điệp (2). Những dãy núi đá vôi này được hình thành trong khoảng thời gian từ 250 triệu đến 300 triệu năm trước. Nhìn chung, chúng đã phải chịu nhiều sự nâng lên, hạ xuống, uốn nếp và sự xâm thực, bào mòn của nước, đặc biệt hơn là bị nước biển xâm thực nhiều lần rồi được bồi lắng bởi phù sa của cả biển và sông. Từ đặc trưng địa lý như vậy, Ninh Bình là tỉnh có địa hình đa dạng, phong phú trong không gian chung ở vùng rìa phía Tây Nam của tam giác châu thổ đồng bằng Bắc Bộ (3).
Trong khoảng TK X, Hoa Lư là vùng đất có nhiều thung lũng kín và mở, đầm nước, cồn đất cát ven sông và trước núi, được bồi đắp không đồng đều trong quá trình hình thành châu thổ sông Hồng, giai đoạn 2.500 đến 1.500 năm trước. Nhà Đinh đã khéo quy hoạch, liên kết những thung lũng ấy bằng nhiều tuyến tường thành nhân tạo để có kinh thành mang dáng dấp một thung lũng lớn, đậm nét yếu tố quân thành, bên bờ hữu sông Hoàng Long (4). Kinh thành này đồng thời chứa đựng yếu tố đô thị ven biển bởi khi đó, sóng biển còn vỗ về dưới chân núi Non Nước, khu vực mà ở thời Trần, gần kề với các cửa biển Đại Ác - Đại An và Gián Khẩu. Như vậy, kinh thành Hoa Lư, ở bên hữu của con sông Hoàng Long lúc đó, có vị trí như điểm giao thủy giữa hai vùng nước ngọt và nước mặn. Con người đã sớm biết lợi thế của điểm giao thủy để tụ cư, khai thác một nguồn thủy sản phong phú, dù đi ngược lên thượng nguồn hay xuôi ra biển cả đều rất dễ dàng, thuận tiện.
Phía bên bờ tả của con sông Hoàng Long là vùng đất Đàm Gia Loan, vùng đất nhà Đinh định đóng đô sau khi đánh dẹp và thu phục 12 sứ quân, thống nhất giang sơn: “Vua một phen cất quân là dẹp yên, bèn tự lập làm đế. Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng đô ở đó, nhưng vì thế đất chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư” (5). Lần lại địa danh Đàm thôn, qua truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ, mọi thông tin đều dẫn dắt hướng về khu vực đền thờ Đức thánh Nguyễn, tức Thiền sư Nguyễn Minh Không, ở phía bên tả dòng Hoàng Long. Hiện nay, tại ngôi đền, có một bia đá ghi lại địa danh “Đàm Gia Loan”(6) và trong số 20 đạo sắc phong cho Thiền sư Nguyễn Minh Không, niên đại từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn, còn lưu giữ tại đền, đều nhắc đến địa danh Đàm Xá và Điềm Giang (xã).
Gác chuông ở đền thờ Đức Thánh Nguyễn, làng Đàm Xá,
Ảnh: Cao Tấn
Xét về mặt không gian địa lý, vùng đất này nằm kẹp giữa hai dãy núi đá vôi Hoa Lư và Vân Long, đều đổ dồn theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có bề rộng trên dưới 10km, trong lòng có sông Hoàng Long. Theo dòng Hoàng Long xưa, bắt đầu từ ngã ba sông Kênh Gà, nơi hợp lưu với hai dòng sông Bôi và sông Lạng để xuôi về phía biển, qua làng Lạc Khoái, có núi Dương (7). Xuôi dòng một chút, nhìn phía bên tả, có làng Đại Hữu, quê hương vua Đinh, gắn liền với các địa danh gò Bồ Đề (tương truyền là nền nhà cũ của vua Đinh), núi Kỳ Lân (nơi Đinh Công Trứ đã táng hài cốt của cha mình, trở thành lăng phát tích của dòng họ Đinh), động Đại Hữu (nơi bà Đàm Thị sinh ra Đinh Bộ Lĩnh), đường Tiết Yết, cầu Đàm (gắn liền với tích truyện Bộ Lĩnh bị người chú cầm gươm đuổi chém…), Đào Áo là khu đất rộng để Đinh Bộ Lĩnh dựng cờ lau tập trận thuở ấu thơ… Kế đó là làng Vũ Ninh, quê hương của Định Quốc công Nguyễn Bặc, cận kề là Đàm Xá – Điềm Giang, theo cách gọi của dân gian là làng Điềm (8).
Cho đến nay, tuy chưa có điều kiện thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ học tại làng để xem lát cắt các tầng văn hóa của Đàm Xá nhưng qua những thông tin kể trên, chúng ta có thể khẳng định, làng Đàm Xá được hình thành trước TK X, là một điểm giao thủy trên sông Hoàng Long, cùng trong không gian căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh và sau này là không gian mở của kinh đô Hoa Lư. Có khá nhiều dấu ấn của việc cư dân nơi đây từ rừng núi tiến dần xuống khai phá vùng đất trước núi, ven sông trong quá trình hình thành tam giác châu thổ Bắc Bộ. Phải chăng, hình hài ban đầu của làng chỉ là một cồn đất ven sông, nằm bên con đường sông chuyên chở văn hóa, tôn giáo… Trong không gian này, chúng ta đã thấy hiện tượng thờ thần Độc Cước ở chùa Cầu Đài, Gia Lập, Gia Viễn; hiện tượng thờ thạch quang Phật ở chùa Mơ, Nho Quan và những sản vật “măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên” giữa vùng rừng núi với vùng đồng bằng mới hình thành và vùng biển cả, thậm chí để đi xa hơn nữa thông qua cửa khẩu biển. Ở TK X, làng Đàm Xá cùng nằm chung trong không gian giao thoa giữa nước mặn với nước ngọt; giữa vùng núi với vùng đồng bằng/châu thổ; vùng giao thoa văn hóa giữa sông Hồng và sông Mã, không gian giao thoa giữa xã hội Việt và Mường trong một giai đoạn “đánh dấu sự quá độ từ Mường sang Việt” (9). Đến đời Lý, nơi đây là phủ Trường Yên, đất thang bộc của Tô Hiến Thành và sang thời Trần, là vùng đất phong ấp của mẹ con Trần Quốc Tảng… Nơi đây, giao thương buôn bán từng phát triển; điều này được ghi dấu qua sự tồn tại của những ngôi đình lớn, như Trùng Hạ, Trùng Thượng, Vân Thị… Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc triều chính, TK XVI, vùng Đàm Xá là căn cứ thủy quân của Mỹ quận công Bùi Văn Khuê, phu quân của Liệt nữ trời Nam Nguyễn Thị Niên, nay dấu tích còn lại là đền Vực Vông linh thiêng ở Chi Phong Hạ (10), nhà thờ Bùi Văn Khuê ở Chi Phong Thượng.
Về thăm đền thờ Thánh Nguyễn ở Đàm Xá hôm nay, chúng tôi được các cụ già trong làng chỉ cho biết khu Gồ Rau, tương truyền là nơi chôn nhau của Thánh Nguyễn. Gồ Rau nằm ở phía sau, cách đền thờ khoảng 300m. Vẫn còn nguyên vẹn tấm bia đá dựng ngay bên bến sông, nơi họp chợ Điềm, trên bia có ghi việc cắt đất lấy hoa lộc để phụng thờ Thánh Tổ. Dân làng giữ tục kiêng ngặt việc đặt tên con cháu là Thành, do theo tương truyền, tên này trùng với tên Thánh Nguyễn thuở thiếu thời, là Nguyễn Trí/Chí Thành. Phía trước đền Thánh Nguyễn có tòa kiến trúc cổ bằng gỗ, được dựng theo lối ba hàng chân cột, giống với kiến trúc nghi môn đền thờ Đinh Tiên Hoàng và đền thờ vua Lê Đại Hành ở Khu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư. Đây được cho là công trình kiến trúc đầu tiên ở khu vực này do người họ Bùi, họ Mạc ở bên kia sông sang dựng để phụng thờ Thánh Nguyễn (11), quy mô bề thế, mang đặc trưng phong cách TK XVII, là nơi lưu giữ nhiều tư liệu hiện vật quý (12).
Do từng là điểm giao thủy ở thời điểm trước và sau TK X, khu vực sông Hoàng Long, trong đó có làng Đàm Xá, thuộc vùng không gian mở, vùng giao thương ven biển của kinh thành Hoa Lư xưa, có tính giao lưu mạnh. Các mối giao lưu với vùng rừng núi phía Tây Bắc được thông qua sông Hoàng Long, ngược sông Bôi, sông Lạng, chạy qua những miền quê trù phú xứ Đoài, cạnh phía Tây Nam tam giác châu thổ Bắc Bộ. Từ Hoàng Long Giang, đi qua sông Đáy để tới những danh lam như chùa Hương, chùa Thầy. Từ Đàm Xá cũng dễ dàng ra trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, đến các vùng Keo; Giao thuộc lưu vực sông Hồng.
Đàm Xá nằm trong tiểu không gian văn hóa lưu vực Đại Hoàng giang, mang hầu hết trong đó những đặc trưng chung của không gian văn hóa Ninh Bình. Hay diễn giải theo cách khác, Đàm Xá mang trong mình những giá trị văn hóa cơ bản của Ninh Bình. Những giá trị đó được thể hiện trên nhiều yếu tố: cảnh quan tự nhiên, tính cách/cá tính con người,… Đặc biệt, tính cách của cư dân nơi đây bao gồm sự chất phác nhưng can trường của người miền núi, sự khôn ngoan, tinh tế, ôn hòa của dân châu thổ, tính mạnh mẽ, phóng khoáng, liều lĩnh của dân miền biển. Cùng với đặc trưng chung như vậy, tiểu không gian văn hóa lưu vực Đại Hoàng giang có những đặc điểm riêng biệt.
Thứ nhất, đây là vùng đất thang mộc của dòng họ Đinh – vua Đinh, dù ngắn ngủi nhưng cũng tạo dựng được dấu ấn cho riêng mình trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Đinh Tiên Hoàng Đế là vị quân chủ đầu tiên, mở đầu cho giai đoạn tự chủ của dân tộc Việt Nam, sau ngót ngàn năm Bắc thuộc. Điều này gắn liền với câu “Đại Hữu sinh vương” mà dân gian đã thường nhắc tới.
Thứ hai, đây là vùng đất sinh thần, gắn liền với thiền sư Nguyễn Minh Không, sau được dân gian tôn làm Thánh. Cuộc đời, số phận của vị thiền sư ấy đã gắn liền với vận mệnh của một triều đại, ông lập công trạng và trở thành Quốc sư vương triều Lý. Ngôi chùa nơi ông tu hành (Viên Quang tự), sau, trở thành đền thờ ông.
Thứ ba, đây là vùng đất kinh sư, trung tâm quyền lực, chính trị của nhà nước quân chủ Đại Cồ Việt. Vùng đất này gắn liền với hai triều đại Đinh và Tiền Lê, tương đương với giai đoạn lịch sử từ 968 đến 1009. Mặc dù chỉ là kinh sư của Đại Cồ Việt trong một thời gian ngắn ngủi nhưng chừng đó cũng đủ để tạo dựng những đặc trưng văn hóa riêng có cho vùng đất cố đô này.
Thứ tư, khu vực này gắn liền với những con người - nhân vật lịch sử, được phủ lên nhiều câu chuyện có tính chất truyền thuyết, huyền hoặc. Những huyền sử ấy đời nào cũng có, nhưng là hiện tượng đậm đặc ở vùng/không gian Đại Hoàng này: từ chuyện Đinh Tiên Hoàng được rồng đưa qua sông, thoát khỏi lưỡi gươm của người chú, cho đến chuyện thiền sư Minh Không có nhiều thuật phép lạ, gánh núi lấp sông, be bờ đơm đó, cưỡi nón qua sông, niệm chú trừ yêu, dùng kim trong vạc dầu sôi để chữa người hóa hổ…
Thứ năm, tiểu không gian lưu vực Đại Hoàng giang là vùng đất thiêng, điều này có điểm tương đồng với các không gian, vùng đất khác ở Ninh Bình nói riêng và châu thổ sông Hồng nói chung. Bởi là đất thiêng, nơi đây đã sinh ra bậc đế vương (Đinh Bộ Lĩnh), bậc thiền sư/quốc sư Minh Không. Họ là những nhân vật của lịch sử, có tài kinh bang, tế thế, có khả năng thay đổi cục diện của đất nước, của triều đại.
Tiểu không gian văn hóa lưu vực Đại Hoàng Giang là sự hội tụ của ba trung tâm: Đại Hữu - Điềm/Đàm Xá - Trường Yên/Hoa Lư. Trong đó, mỗi trung tâm gắn liền với một cá nhân mà tạo nên đặc điểm của trung tâm đó. Sự kết hợp các đặc điểm của mỗi trung tâm ấy đã tạo thành đặc trưng cho toàn tiểu vùng. Nếu như Đinh Bộ Lĩnh là nhân vật tiêu biểu cho trung tâm Đại Hữu thì thiền sư Nguyễn Minh Không chính là nhân vật tiêu biểu cho trung tâm Đàm/Điềm Xá. Những đặc trưng về cảnh quan tự nhiên đã tạo ra tính cách/cá tính vùng miền, từ đó sản sinh ra những con người kiệt xuất, là sản phẩm kết tinh của vùng đất, của thời đại lịch sử mà họ đã trải qua. Để khôi phục, bảo tồn di sản, bẳn sắc văn hóa dân tộc, cần có quy hoạch chung cho vùng văn hóa lưu vực Đại Hoàng giang (bên tả và hữu sông Hoàng Long) đặc biệt cần chú ý khơi thông dòng Hoàng Long xưa và nay, làm cơ sở phát triển quy hoạch du lịch, coi đây là một trong những trung tâm để tìm hiểu về lịch sử văn hóa dân tộc.
_______________
1. Đây là câu nói của người dân địa phương, khi nói về vùng đất bên tả ngạn của sông Hoàng Long, về hai địa danh Đại Hữu và Điềm Xá. Đây cũng là một hiện tượng văn hóa dân gian rất phổ biến ở Việt Nam nói chung và ở vùng châu thổ sông Hồng nói riêng, Ninh Bình không phải là trường hợp ngoại lệ.
2. Lê Bá Thảo, Việt Nam, lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001.
3. Tham khảo thêm trong Trương Đình Tưởng, Địa chí dân gian Ninh Bình, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004.
4. Sông Hoàng Long, vốn bắt nguồn từ hai con sông Kiến Phong và Lãng Phong, “ở cách huyện Yên Hóa 1 dặm về phía đông nam… chảy qua địa phận làng Bầu, bến đò ngang Kiến Phong, lại chảy 2 dặm đến ngã ba Viên Đăng thuộc huyện Gia Viễn, rồi hợp với sông Lãng Phong, lại chuyển sang phía đông bắc 6 dặm làm sông Đại Hữu (xưa là Đại Hoàng), lại chảy 10 dặm tắt qua động Hoa Lư làm sông Hoàng Long…”. Trích trong Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997, tập 3, tr. 259-260.
5. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tập 1, tr. 211.
6. “Bấy giờ, vua (Đinh Bộ Lĩnh) còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui”. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, sđd, tr.210 - 211.
7 . Có nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thiết: pháp danh Dương Không Lộ xuất phát từ đây. Xem thêm: Trương Đình Tưởng, sđd, tr. 186.
8. Theo các cụ trong làng, ở thời vua Lê, chúa Trịnh, do từ “Đàm” trong tên làng trùng tên với một vị vua chúa nào đó nên được đổi thành Điềm. Xem thêm: Trương Đình Tưởng, sđd, tr. 172-173.
9. Chi tiết này đã được các nhà nghiên cứu về dân tộc học, lịch sử học tộc người… chứng minh qua quá trình con người di cư/thiên di từ vùng rừng núi, men theo lưu vực sông, dần chiếm lĩnh, làm chủ các vùng châu thổ rồi tiến dần tới biển. Vùng miền núi Ninh Bình gắn chặt với không gian tự nhiên của miền núi/vòng cung Tây Bắc, nơi cư trú trù mật của các tộc người Mường, Thái, Mông… Gốc gác của chính vị thủ lĩnh họ Đinh (Bộ Lĩnh) là thuộc tộc người Mường, sau dựng nghiệp ở vùng châu thổ, dần dà được Việt hóa/trở thành người Việt lúc nào không hay. Quan điểm này được một số nhà nghiên cứu đề cập, như Trần Quốc Vượng, trong tham luận tại Hội thảo khoa học Việt Nam TK X; Trương Đình Tưởng, trong Địa chí Văn hóa dân gian Ninh Bình, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004; Đinh Đức Tiến, trong tham luận Tản mạn về quê hương Ninh Bình và dòng họ Đinh, tại Hội thảo khoa học Dòng họ Đinh với diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Ninh Bình, 2017.
10. Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997, tập 3, tr. 274, có đoạn: “đền thần Quảng Uyên, ở xã Chi Phong, huyện Yên Khánh. Thần là tiết phụ Nguyễn Thị Niên”; tr. 282, có đoạn: “Nguyễn Thị Niên là con gái thứ ba của Nguyễn Quyện và là vợ của Nghĩa quận công Bùi Văn Khuê. Khuê bị Phan Ngạn giết, Thị Niên đem thi thể chồng về chôn, khóc bảo quân sĩ của chồng rằng: người nào cố sức báo ơn, giết được Phan Ngạn, sẽ có trọng thưởng… Bèn đánh nhau với Phan Ngạn, giết được Ngạn ở Hoàng Giang. Xét… Thị Niên để tang chồng. Khi xong tang, tự gieo mình xuống sông xã Chi Phong (làng của Bùi Văn Khuê), dân xã lập đền thờ”.
11. Cũng theo các cụ cao niên trong làng, việc này xảy ra do cha con Mỹ quận công Bùi Văn Khuê đã cho tu bổ khu di tích này.
12. Xem thêm: Trương Đình Tưởng, sđd, tr. 173-175.
Tác giả: Nguyễn Cao Tấn
Nguồn: Tạp chí VHNT số 425, tháng 11-2019