Từ xưa đến nay, trong quá trình hình thành, phát triển sự nghiệp văn hóa, hoạt động quản lý văn hóa luôn giữ một vị thế và vai trò hết sức quan trọng. Thực tiễn nhiều năm qua đã chứng minh rằng, hoạt động quản lý văn hóa đã, một mặt, góp phần triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước, mặt khác, tác động vào quá trình hiện thực hóa mục tiêu, kế hoạch phát triển văn hóa. Và để hoàn tất được vai trò quan trọng này trong những giai đoạn nhất định, công tác quản lý văn hóa phải thực sự nhờ cậy vào một yếu tố sống còn: đội ngũ cán bộ văn hóa nói chung, cán bộ quản lý văn hóa nói riêng.
1. Mấy nét thực trạng của công tác quản lý nhà nước về văn hóa
Quản lý văn hóa là tác động có định hướng của hệ thống các cơ quan, tổ chức đến hoạt động văn hóa nhằm xây dựng một nền văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa, sản xuất những sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu của con người. Như vậy, quản lý văn hóa thực chất là quản lý phát triển văn hóa, lấy đời sống văn hóa, hoạt động văn hóa cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa làm đối tượng quản lý, hướng đến mục tiêu cao nhất là xây dựng văn hóa, phát triển con người. Quản lý phát triển văn hóa tốt, mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng văn hóa, phát triển con người. Ngược lại, quản lý văn hóa yếu kém sẽ đưa đến những phức tạp cho việc quản lý phát triển xã hội nói chung. Vì thế, công tác định hướng quản lý văn hóa ngày càng phải được coi như một công việc có tầm quan trọng đặc biệt, lâu dài trong quá trình phát triển đất nước.
Trong quản lý văn hóa ở nước ta hiện nay, quản lý nhà nước về văn hóa là một bộ phận cơ bản, quan trọng, đóng vai trò định hướng, định chuẩn và có tác động cực kỳ quan trọng tới sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng con người. Bởi, quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ nền văn hóa, toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia thông qua quyền lực của nhà nước, thể hiện bằng hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách… nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh đất nước ta bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập, tuy công tác quản lý văn hóa đã được đẩy mạnh, tạo nên sự phát triển nền văn hóa mới với nhiều thành tựu, nhưng về cơ bản, thực tế đang đặt ra không ít vấn đề về công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên nhiều bình diện, cả lý luận lẫn thực tiễn. Việc ngày càng nhiều mô hình, loại hình, sản phẩm, phương thức hoạt động văn hóa xuất hiện trong nước hay du nhập từ nước ngoài vào đời sống văn hóa xã hội với tần suất cao, với những khía cạnh đa dạng, phức tạp cũng thực sự đòi hỏi công tác quản lý văn hóa, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về văn hóa, ở nước ta phải được nâng lên một bước mới theo tinh thần của khoa học quản lý. Chính xác hơn, đó là quản lý văn hóa một cách khoa học, trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Trước hết, cần nhìn nhận rằng, quản lý nói chung, quản lý văn hóa nói riêng, dù ngày càng được chú trọng ở tính khoa học, chuyên sâu… thực ra cũng là một hoạt động văn hóa chuyên biệt, một vấn đề ngày càng được quan tâm tìm hiểu bởi vị thế ngày càng quan trọng của nó trong xã hội.
Do đó, phát triển nhanh, mạnh sự nghiệp văn hóa, trong đó có công tác quản lý văn hóa, luôn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Trong quá trình xây dựng và phát triển nhiều năm qua, việc đẩy mạnh công tác quản lý văn hóa cả về chiều rộng và chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực đã được chú trọng, tạo không ít thành quả. Tuy nhiên, có thể thấy chất lượng, số lượng, quy mô, phương thức... của công tác quản lý văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, chưa theo kịp thực tiễn hoạt động văn hóa và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết một cách thấu đáo.
Những năm qua, quán triệt tinh thần coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước, hoạt động quản lý văn hóa ở nước ta, trong đó có quản lý nhà nước về văn hóa và sự tự quản của nhân dân về văn hóa, đã có những kết quả khả quan đáng ghi nhận. Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa ngày càng được kiện toàn theo hướng thiết thực, hiệu quả trên phạm vi cả nước. Ngành VHTTDL đã tập trung xây dựng, ban hành và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ, có giá trị pháp lý cao trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, gia đình, hình thành hành lang và cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về văn hóa. Qua đó, đã tạo điều kiện cho sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong kinh doanh và hoạt động văn hóa, huy động được sự tham gia của toàn xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa. Có thể nói, đến nay, hệ thống quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa đã ngày càng được kiện toàn và củng cố; công tác chuẩn hóa cán bộ bước đầu phát huy tác dụng; đội ngũ cán bộ quản lý ngành VHTTDL về cơ bản được đảm bảo về phẩm chất chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ…
Các thiết chế văn hóa từ trung ương tới địa phương từng bước được hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt động. Nhiều trung tâm văn hóa, thông tin, thể thao, nhà hát, câu lạc bộ, rạp chiếu phim, khu di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng, thư viện, nhà triển lãm, cửa hàng sách, báo, khu vui chơi giải trí… đã có những đổi mới về phương thức hoạt động, đáp ứng tương đối tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân. Cơ chế quản lý văn hóa đã bám sát thực tiễn đời sống văn hóa đất nước, khuyến khích được sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa và loại hình giải trí. Chính sách xã hội hóa văn hóa đã khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng và phát triển văn hóa đất nước…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về văn hóa cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Hiện nay, tuy chúng ta đang tiến hành quản lý văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, nhưng dấu ấn của cơ chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm, khiến cho nhiều cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức văn hóa vẫn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa phát huy tốt tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa chưa phát huy hiệu quả cao. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành văn hóa, thể thao và du lịch còn nhiều lúng túng. Trong khi quản lý văn hóa là một công việc rất phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi cả về kiến thức, kỹ năng lẫn tinh thần trách nhiệm, thì đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là cấp cơ sở, còn nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng tốt yêu cầu công tác. Thực tế cho thấy, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa ở một số địa phương và lĩnh vực cụ thể chưa cao. Sự tách bạch giữa quản lý nhà nước với hoạt động tác nghiệp chưa rõ, vẫn còn sự trùng chéo, nhầm lẫn giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng triển khai các hoạt động sự nghiệp. Việc tổ chức, quản lý một số phong trào văn hóa còn mang tính hình thức, bề nổi, nội dung còn nghèo nàn, hiệu quả xã hội chưa cao. Công tác quản lý tổ chức các lễ kỷ niệm, sự kiện, festival… còn chưa sát sao, để xảy ra tình trạng lãng phí, phô trương, hình thức. Hệ thống các thiết chế văn hóa vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu; khoảng cách chênh lệch trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các bộ phận dân cư còn chưa đồng đều. Việc kiểm soát xu thế thương mại hóa văn hóa thái quá trong kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa và sự phục hồi, bùng phát hiện tượng mê tín dị đoan, các hủ tục còn chưa thực sự hiệu quả...
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do văn hóa là một ngành đa lĩnh vực, rất phức tạp, nhạy cảm, mang tính đặc thù cao, nên việc quản lý nhà nước cũng như tự quản của người dân gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, văn hóa bị chi phối bởi mặt trái của kinh tế thị trường, với những tác động tiêu cực, nên thường xuyên xuất hiện những vấn đề, hiện tượng văn hóa mới, phức tạp, không dễ giải quyết một sớm một chiều. Quan niệm về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội của cấp ủy, chính quyền một số địa phương cũng như người dân chưa đầy đủ, sâu sắc, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý văn hóa. Hệ thống luật pháp liên quan đến văn hóa chưa đồng bộ, còn nhiều khoảng trống hoặc trùng chéo; nguồn ngân sách dành cho hoạt động quản lý chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; năng lực nguồn nhân lực quản lý văn hóa, nói chung vẫn còn nhiều hạn chế... dẫn đến ảnh hưởng tới chất lượng của công tác quản lý nhà nước về văn hóa.
2. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa trong bối cảnh mới
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, là khâu then chốt trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, rất cần chú trọng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa xuất phát từ tình hình thực tiễn, thông qua thực tiễn để đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới của đất nước; gắn xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa với xây dựng tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động văn hóa... Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời gian vừa qua đã đạt được những chuyển biến đáng kể. Đó là, đã xây dựng, đổi mới các quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn về cán bộ, khắc phục có kết quả những hạn chế của công tác cán bộ trong từng khâu tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm, luân chuyển, quy hoạch, chính sách, đào tạo bồi dưỡng... để làm tốt công tác quản lý nhà nước về văn hóa, rất cần chú ý một số vấn đề.
Công tác quản lý nhà nước về văn hóa phải đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển văn hóa với phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Xây dựng quy hoạch phát triển các hoạt động văn hóa theo hướng lành mạnh, hiệu quả, phục vụ tốt nhất nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với việc giữ gìn, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch văn hóa. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong tổ chức và quản lý văn hóa. Phát huy tối đa tiềm năng chủ động sáng tạo và tính tích cực, tự nguyện, tự quản của nhân dân trong công tác tổ chức và quản lý văn hóa.
Xây dựng các chính sách văn hóa nhằm tăng cường hoạt động kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế để tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động văn hóa phát triển. Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, tạo môi trường văn hóa sôi động và lành mạnh...
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa về số lượng cũng như chất lượng hiện là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Thực hiện quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hóa có trình độ chuyên môn theo kịp và thích ứng với sự phát triển của đất nước. Chăm lo xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và khả năng tham mưu, giúp việc, quản lý tốt các hoạt động văn hóa trên phạm vi cả nước.
Như vậy, trong quản lý nhà nước, vấn đề con người trong bộ máy quản lý đã được quan tâm ngày một đầy đủ hơn. Đây chính là một phương diện quan trọng trong văn hóa quản lý nhà nước. Các thành tựu của khoa học công nghệ đã được sử dụng ngày càng nhiều, khiến cho hiệu lực và hiệu quả quản lý văn hóa ngày càng gia tăng. Việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tin học hóa, xây dựng chính phủ điện tử… đang trở thành trung tâm chú ý của cải cách hành chính nhằm tiết kiệm nhân lực, tài lực và nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về văn hóa.
Trong thực tiễn, người ta nhận thấy rằng, hiệu quả của quản lý nhà nước về văn hóa không chỉ phụ thuộc vào phương thức, công nghệ quản lý mà còn phụ thuộc rất nhiều vào nhân cách các nhà quản lý. Nhân cách nhà quản lý biểu hiện không đơn giản chỉ ở những hiểu biết và khả năng thực hành công việc quản lý của họ, mà còn được biểu hiện ở việc tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới, nhân viên làm việc. Điều đó có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Nhân cách nhà quản lý nhà nước về văn hóa còn biểu hiện ở những phẩm chất cá nhân, đặc biệt là sự nêu gương trong công việc cũng như trong đời tư. Chính những điều đó có tác dụng rất lớn đối với việc động viên ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc của cấp dưới, nhân viên. Trong quản lý nhà nước, người ta còn nhận ra vai trò của các nhân tố khác, như kinh nghiệm cá nhân, kỹ năng, linh cảm, trực giác, cảm hứng sáng tạo của nhà quản lý; đó là những nhân tố cấu thành nghệ thuật quản lý. Như vậy, quản lý nhà nước về văn hóa được nhìn nhận và tiến hành vừa như một khoa học, vừa như một nghệ thuật. Sự thống nhất giữa phương diện khoa học và phương diện nghệ thuật trong quản lý nhà nước về văn hóa làm cho văn hóa trong quản lý nhà nước được thể hiện ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn; đồng thời nhân lực, vật lực, tài lực được tiết kiệm, hiệu quả của quản lý nhà nước về văn hóa được gia tăng.
Với tư cách một lĩnh vực, một loại hình hoạt động của xã hội, quản lý nhà nước về văn hóa chính là một trong những địa bàn thể hiện sức mạnh bản chất của con người. Đồng thời, văn hóa quản lý nhà nước là động lực, là sự đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa có hiệu quả thông qua nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa. Do đó, có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua, việc Đảng và Nhà nước ta không chỉ coi trọng nội dung, phương thức thực hành công tác quản lý nhà nước về văn hóa mà còn hết sức quan tâm đến việc nâng cao chất lượng văn hóa lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ văn hóa, là một phương thức hết sức đúng đắn.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 392, tháng 2-2017
Tác giả : LÊ THỊ BÍCH THUẬN