Bản tính khoan dung, nhân ái và sự kế thừa truyền thống nhân nghĩa trong văn hóa dân tộc và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Hồ Chí Minh đã làm cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người mang tính khoan dung sâu sắc. Tìm hiểu tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn tấm gương đạo đức và nhân cách cao cả của Người, từ đó rút ra những bài học trong xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Khoan dung là cách ứng xử văn hóa, rộng lượng của con người trước những lỗi lầm của người khác. Đó cũng là sự thấu hiểu, thái độ khách quan, công bằng, không định kiến, không cố chấp trước những ý kiến, quan điểm, niềm tin của người khác, của dân tộc khác cho dù nó khác biệt so với những gì mình có nếu sự khác biệt đó không làm tổn hại đến lợi ích chân chính của người khác.
Khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức là một trong những giá trị đạo đức được Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc, tự giác và thể hiện đậm nét trong mục đích cuộc đời mình. Mục đích vì tổ quốc, vì cách mạng, vì nhân dân là giá trị cơ bản trong cuộc sống của Hồ Chí Minh; trong đó, mục đích vì hạnh phúc của con người được bắt nguồn từ tình thương với người lao động, làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh đã kiên định mục đích đó suốt cuộc đời mình. Cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời, trong bản di chúc lịch sử, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” (1).
Nội dung khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức được tạo nên bởi sự thống nhất giữa nhận thức với hành động và ý chí kiên cường để đạt bằng được mục đích đã đặt ra. Chính mặt thống nhất giữa nhận thức với hành động đã tạo ra tính thực tiễn, tính hiện thực, tính khả thi hiện thực hóa tư tưởng khoan dung của Người. Nội dung này ở Hồ Chí Minh khác với nhiều nhà hiền triết, tư tưởng Á Đông và nhiều sĩ phu phong kiến trước và cùng thời: nhận thức, thương người mà thiếu hành động thực tiễn.
Cốt lõi của khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức là nhân ái, là tình thương, là sự tôn trọng người lao động trong nước cũng như trên thế giới. Chính vì yêu thương con người hết mình nên Hồ Chí Minh rất khoan dung, độ lượng với những người khác dù người đó là ai. Ngay cả những người lầm đường, lạc lối đã có lúc đi ngược lại lợi ích của dân tộc, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện sự bao dung, độ lượng vị tha. Đối với những người do hoàn cảnh đưa đẩy mà lầm đường, lạc lối, Hồ Chí Minh cũng muốn cảm hóa họ, lôi cuốn họ về với nhân dân. Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ” (2). Với kẻ thù, Người cũng thể hiện sự bao dung, độ lượng muốn họ bỏ Pháp quay về với nhân dân, tổ quốc: “Tôi biết rằng: các người đều là con dân nước Việt, song vì bị Pháp bắt buộc, hoặc bị chúng lừa gạt, cho nên đi lính cho chúng. Chứ thật không ai muốn “cõng rắn bắt gà nhà”, “rước voi giày mả tổ”, chống lại tổ quốc để mang tiếng Việt gian” (3). Với những người lính Pháp tử trận, Hồ Chí Minh cũng dành cho họ sự thương xót chân tình, đầy tình người: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người” (4). Đối với con người nói chung, Hồ Chí Minh luôn khuyến khích, nâng đỡ, hướng họ tới chân, thiện, mỹ; khơi dậy ở con người mặt tốt, giúp họ vươn lên, khẳng định mình.
Khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức còn là sự thống nhất hữu cơ giữa tình yêu thương con người với lòng bao dung, độ lượng và niềm tin vào sức mạnh, phẩm giá con người. Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, bởi lẽ, Người thấy được sức mạnh vĩ đại ở nhân dân. Trong di chúc, Người còn căn dặn cán bộ, đảng viên rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là hết sức khó khăn, gian khổ nhưng “để thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (5). Niềm tin vào sức mạnh, phẩm giá của nhân dân ở Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc cho tấm lòng bao dung, độ lượng của Người. Đó cũng là nét đặc sắc rất riêng trong khoan dung Hồ Chí Minh.
Khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức xuất phát từ cái tâm trong nhân cách, là lòng thương yêu con người vô hạn, rộng đến bao la vô cùng của Người. Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh không chỉ thuần tuý là lòng trắc ẩn đối với con người mà còn là tình yêu luôn hướng về giai cấp vô sản và nhân dân lao động, những người bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới, không phụ thuộc vào chính kiến, màu da hay tín ngưỡng tôn giáo. Vì lẽ đó, đạo đức khoan dung Hồ Chí Minh không dừng lại ở chỗ chỉ thương yêu nhân dân lao động trên đất nước mình mà còn cảm thông với số phận của các dân tộc thuộc địa đủ màu da trên thế giới. Xuất phát từ tình yêu thương đồng loại, thương yêu nhân dân các dân tộc bị áp bức, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho họ con đường để giải phóng: “Cách mạng giải phóng dân tộc là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới” (6) và khẳng định rằng “sự nhất trí của cuộc đấu tranh chống đế quốc bảo đảm thắng lợi cho các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa và giai cấp vô sản ở các nước tư bản” (7).
Khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức đã vượt qua mọi rào cản để đi đến tư tưởng rộng rãi và bao quát. Hồ Chí Minh cho rằng: “đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau” (8). Khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức không chỉ bó hẹp trong phạm vi đạo đức cá nhân hay dân tộc mà đã mở ra tầm nhân loại. Người cho rằng sự liên kết quốc tế là động lực cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới. Đó là một tư tưởng chiến lược vĩ đại mà Hồ Chí Minh đã phát hiện và thực hiện triệt để trong quá trình hoạt động chính trị của mình.
Có thể khẳng định, nội dung khoan dung Hồ Chí Minh trong lĩnh vực đạo đức không phải là một giá trị trừu tượng mà nó được Người cụ thể hóa qua hoạt động thực tiễn phong phú của mình. Người khẳng định cần “khoan dung nhân ái đối với những người lầm đường lạc lối, biết cải tà quy chính”. Tha thứ cho lỗi lầm của người khác không chỉ là hành vi bị thôi thúc bởi yêu cầu của chính trị mà cao hơn, sâu hơn là từ lương tâm đạo đức, từ việc ý thức sâu sắc về tính đồng loại giữa con người với con người. Hồ Chí Minh tuyệt đối phê phán mọi thái độ tự kiêu, lối sống hẹp hòi ích kỷ. Người viết: “Tự kiêu là hẹp hòi. Tài đức độ lượng nhỏ nhen, không bao dung được những ý kiến và những phê bình của người khác. Thí dụ một cái cốc, vì hẹp hòi mà chỉ đựng được rất ít nước, thêm một chút nước nữa, là phải tràn. Trái với cái độ lượng rộng lớn của bể, bao nhiêu nước cũng vẫn chứa được” (9).
Bên cạnh đó, khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức còn là sự tôn trọng và thừa nhận những giá trị riêng của người khác. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Người đã dẫn ra tư tưởng trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789 để khẳng định quyền được thừa nhận, quyền được hưởng các quyền cơ bản của con người, sự tôn trọng trong mối quan hệ giữa con người với con người. Người khẳng định: “Lòng của người cách mạng chân chính là phải rộng rãi như sông như bể, có như thế thì mới tiến bộ. Nếu có một chút công trạng gì mà tự cao tự đại, coi người ta không ra gì, thế là sai, thế là cái ruột nhỏ, ví như cái cốc, một gáo nước đổ vào thì tràn hết. Vậy các cô, các chú muốn độ lượng mình như sông như bể hay như cái cốc? Như sông như bể mới gọi là độ lượng của người cách mạng” (10).
Nội dung thể hiện cao nhất về khoan dung trong lĩnh vực đạo đức của Hồ Chí Minh là ở sự tiếp nhận các giá trị đạo đức cộng sản. Người đánh giá cao những ai vì lẽ phải, vì chính nghĩa, vì sự tiến bộ của con người mà đấu tranh cho dù họ ở quốc gia nào, màu da nào, giai cấp, đảng phái nào. Người đấu tranh không khoan nhượng chống các thế lực thực dân, đế quốc song phân biệt rất rõ bạn và thù. Người bày tỏ sự tôn trọng, lòng biết ơn đối với những ai ủng hộ dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giữ nền độc lập, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ; căm ghét những kẻ chống lại mục tiêu ấy. Làm được điều này không phải đơn giản vì không chỉ cần có một tinh thần khoan dung, biết giữ gìn các giá trị của mình, biết tôn trọng sự khác biệt và biết chấp nhận có phê phán mà còn cần biết cách tổ chức thực hiện sự đại đoàn kết đó. Do đó, khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức đã trở thành sợi dây kết tinh tình hữu nghị, yêu thương tôn trọng và đoàn kết vì hòa bình giữa các dân tộc, chủng tộc.
Đối với Hồ Chí Minh khoan dung trong lĩnh vực đạo đức còn là sự đấu tranh quyết liệt không đội trời chung với kẻ thù chà đạp lên nhân phẩm con người. Không chỉ dừng ở mức cảm thông sâu sắc nỗi khổ cực của nhân dân lao động mà cao hơn đó là sự thể hiện ở hành động cứu người, cứu đời, ở cách xử thế, lối sống trong đời sống hằng ngày.
Như vậy, khoan dung Hồ Chí Minh trong đạo đức là lòng yêu thương con người bao la mang tầm nhân loại đã được minh chứng bằng cả cuộc đời hoạt động vì độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc của người Việt Nam và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Chính nhờ sự khoan dung, tôn trọng con người và lối sống của những người khác mà Hồ Chí Minh đã thu phục được lòng người, tập hợp được đông đảo các lực lượng trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng hòa bình. Sức mạnh của cách mạng chủ yếu và cốt lõi là ở sự khoan dung, ở sự cảm hóa trái tim và khối óc của đông đảo quần chúng. Ở Hồ Chí Minh, nhân ái, khoan dung, độ lượng là để cảm hóa lòng người và khoan dung còn để nâng cao giá trị con người lên một tầm vóc cao hơn, để họ tự tin vào năng lực giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
_______________
1, 5, 6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập15, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.615, 617, 392.
2, 4, 8. Hồ Chí Minh, sđd, tập 4, tr.280, 510, 248.
3. Hồ Chí Minh, sđd, tập 7, tr.233.
7. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.567.
9. Hồ Chí Minh, sđd, tập 5, tr.632.
10. Hồ Chí Minh, sđd, tập 10, tr.608.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 408, tháng 6 - 2018
Tác giả : ĐỖ DUY TÚ