Thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh Việt Nam

Quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh đang là một vấn đề được quan tâm không chỉ trong giới luật học mà còn ảnh hưởng đến giới công nghệ, truyền thông… Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào phân tích thực trạng pháp luật về quyền tác giả - tác phẩm nhiếp ảnh và trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa việc bảo vệ quyền tác giả - tác phẩm nhiếp ảnh ở Việt Nam

1. Khái quát pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Tác phẩm nhiếp ảnh được hiểu là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào (thông qua phương pháp hóa học, kỹ thuật số hoặc phương pháp khác).

Một tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ bản quyền được quy định tại Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) năm 2015. Phạm vi và tính chất của tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ rất rộng, không những là tác phẩm được tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình, không sao chép tác phẩm từ người khác mà những tác phẩm phái sinh cũng được bảo hộ với điều kiện người tạo ra tác phẩm đó không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng làm tác phẩm phái sinh. Như vậy, tác phẩm nhiếp ảnh được hiểu là kết quả của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào.

Đối tượng quyền tác giả được quy định tại Điều 737 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005. Nội dung quyền tác giả ở BLDS 2005 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 738 BLDS 2005). Ngày 24-11-2015, BLDS 2015 ra đời thay thế BLDS 2005. Luật SHTT 2005 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29-11-2005.

Sau khi Luật SHTT 2005 ra đời, có các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả như: Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21-09-2006 của Chính phủ hướng thi hành một số điều dẫn BLDS 2005, Luật SHTT 2005 về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22-9-2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của SHTT 2005 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009: Luật SHTT 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã cụ thể hóa các quy định về quyền tác giả nói chung và trong nhiếp ảnh nói riêng; đồng thời nội luật hóa các quy định pháp luật quốc tế về quyền tác giả.

2. Thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh ở Việt Nam

Đối tượng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, đối tượng bảo hộ của quyền tác giả là những tác phẩm được tổ chức, cá nhân sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm thuộc một trong số những loại hình được liệt kê tại Điều 14 của Luật SHTT, bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, băng ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mạng chương trình được mã hóa. Có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã quy định cứng về những đối tượng được bảo hộ quyền tác giả.

Theo Công ước Berne, Điều 2.1, các tác phẩm nghệ thuật có thể được biểu hiện theo bất kỳ phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh. Một cá nhân khi sáng tác ra tác phẩm nhiếp ảnh phải thể hiện được tác phẩm dưới hình thức nhất định. Như đã phân tích, để một tác phẩm nhiếp ảnh được bảo hộ, trước hết, nó phải được định hình và tồn tại dưới dạng một loại hình nhất định, pháp luật không bảo hộ quyền tác giả tác phẩm nghệ thuật khi nó mới chỉ là ý tưởng sáng tạo.

Chủ thể bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

 Quyền sở hữu đối với một tài sản được xác định thông qua ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Dưới góc độ của pháp luật sở hữu trí tuệ, ngay trong môi trường truyền thống, chủ thể quyền tác giả là những người có quyền năng đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Do đó, chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh là những người chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tác phẩm nhiếp ảnh. Dưới góc độ tiếp cận này, Công ước Berne, Điều 2.6, cũng quy định việc bảo hộ quyền tác giả được dành cho tác giả và những người sở hữu quyền tác giả. Như vậy, các chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh gồm có tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.

Đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Cá nhân, pháp nhân nước ngoài là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh, quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật SHTT, có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác nộp 1 hồ sơ đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan tại trụ sở Cục Bản quyền tác giả hoặc Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả hoặc Sở VHTTDL nơi tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cư trú hoặc có trụ sở. Hồ sơ có thể được gửi qua đường bưu điện. Ngoài ra, các quy định về trường hợp cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận cũng được hướng dẫn chi tiết.

Sau khi đăng ký chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh theo quy định tại Điều 49 Luật SHTT, tác giả sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Đây không phải là thủ tục bắt buộc để hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh, chủ sở hữu có quyền đăng ký hoặc không đăng ký mà quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm nhiếp ảnh vẫn được bảo hộ theo nguyên tắc bảo hộ tự động. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh có ý nghĩa rất lớn đối với chủ sở hữu - người có giấy chứng nhận được pháp luật thừa nhận là chủ sở hữu tác phẩm nhiếp ảnh. Trong trường hợp có tranh chấp phát sinh, tổ chức đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký không có nghĩa vụ chứng minh tác phẩm nhiếp ảnh đó thuộc về mình (khoản 3 Điều 49 Luật SHTT).

Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh

Theo quy định của Điều 738 BLDS 2005, quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và tài sản. Quyền nhân thân được quy định tại Điều 19 của Luật SHTT bao gồm các quyền sau:

Thứ nhất, đó là quyền đặt tên cho tác phẩm. Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, tên gọi chính là yếu tố dùng để cá thể hóa, giúp công chúng phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác. Ngoài ra, tên gọi của tác phẩm nhiếp ảnh còn có thể giúp khái quát nội dung tác phẩm, truyền tải một phần giá trị của tác phẩm tới công chúng.

Thứ hai, là quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm nhiếp ảnh, quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng, quyền này được bảo hộ vô thời hạn và không thể chuyển giao cho người khác theo quy định tại Khoản 2 Điều 19 Luật SHTT. Theo Điều 6bis của Công ước Berne, quyền đứng tên của tác giả độc lập với quyền kinh tế của quyền tác giả, và vẫn giữ nguyên quyền được đòi thu nhận mình là tác giả của tác phẩm, kể cả sau khi quyền này đã được chuyển nhượng.

Thứ ba, là quyền công bố tác phẩm nhiếp ảnh hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm nhiếp ảnh. Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại Khoản 3 Điều 19 Luật SHTT. Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, việc phát hành các bản sao này được hiểu là phát hành các bản sao ảnh và thể hiện tác phẩm nhiếp ảnh đó ra các vật liệu khác nhau nào đó đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý, để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm.

Thứ tư, là quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm nhiếp ảnh, theo Điều 27.2 Tuyển ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948, mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả. Quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm nhiếp ảnh là quyền ngăn cấm hoặc cho phép người khác khai thác, sửa chữa tác phẩm nhiếp ảnh của mình.

Bên cạnh quyền nhân thân, chủ thể của quyền tác giả còn có các quyền tài sản đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Theo pháp luật Việt Nam, các quyền tài sản được quy định tại Khoản 3 Điều 738 BLDS năm 2005 và Điều 20 Luật SHTT.

Quyền tài sản đầu tiên là quyền sao chép tác phẩm nhiếp ảnh. Điểm c, Khoản 1, Điều 20 Luật SHTT quy định: Quyền sao chép tác phẩm là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử.

Quyền làm tác phẩm nhiếp ảnh phái sinh. Điểm a, Khoản 1, Điều 20 Luật SHTT quy định: tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Điều 12 Công ước Berne, cũng quy định: tác giả các tác phẩm văn học và nghệ thuật được hưởng toàn quyền ủy thác quyền phóng tác, chuyển thể hay cải biến từ tác phẩm của mình.

Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm nhiếp ảnh. Theo Điểm d, Khoản 1, Điều 20, Luật SHTT, đây là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được, để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.

Quyền truyền đạt tác phẩm nhiếp ảnh đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. Quyền này được hiểu là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng là công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.

3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh ở Việt Nam

Thứ nhất, ban hành một văn bản pháp luật riêng về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Một trong những nguyên nhân chính của việc thực hiện pháp luật về bảo hộ bản quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh là thiếu hành lang pháp lý quy định chi tiết cho việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Do đó, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh phải được xác định là một khâu quan trọng hàng đầu hiện nay, là giải pháp có tính đột phá, tạo hành lang pháp lý để quản lý, thực thi có hiệu quả pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Tác giả kiến nghị cần hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng: Tạo ra cơ chế giải quyết thuận lợi, nhanh chóng và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền SHTT; giải quyết các tranh chấp về quyền SHTT bằng biện pháp dân sự cần phải được khuyến khích. Luật cần quy định giới hạn đối tượng SHTT bị xử lý hành chính. Tòa án, Trọng tài thương mại và các trung gian hòa giải cần đóng vai trò trung tâm trong đảm bảo thực thi và giải quyết tranh chấp quyền SHTT.

Thứ ba, nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm bản quyền tác phẩm nhiếp ảnh. Thực tế cho thấy qua các chiến dịch kiểm tra, thanh tra, những hành vi xâm phạm đã được đẩy lùi một bước, có vai trò to lớn trong việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm nhưng nếu không làm thường xuyên, không đồng bộ thì không hiệu quả. Do đó, Nhà nước cần tăng cường hoạt động bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt được thực hiện một cách hiệu quả nhất.

Thứ tư, nâng cao ý thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng. Để làm tốt điều này, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật về quyền tác giả.

Thứ năm, nâng cao ý thức pháp luật cho các tác giả trong việc bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh của mình. Tác giả tác phẩm nhiếp ảnh cần thường xuyên cập nhật các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động nhiếp ảnh, từ đó có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền tác giả của mình, tránh những vi phạm xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của các tác giả nhiếp ảnh.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nhiếp ảnh. Tác phẩm nhiếp ảnh là một loại tác phẩm rất dễ bị hành vi vi phạm quyền tác giả xâm phạm, do đó cần có một mối quan hệ hợp tác quốc tế chặt chẽ.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Dân sự, Hà Nội, 2005.

2. Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886 (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26-10-2004.

3. Nghị định 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

4. Trần Văn Hải, Những bất cập trong quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành, Tạp chí Thông tin Pháp luật dân sự, 2011.

Tác giả: Trần Thị Thu Đông

Nguồn: Tạp chí VHNT số 452, tháng 2-2021

;