Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền lợi đều vì dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Quán triệt tư tưởng của Người, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng đó vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng giai đoạn, thời điểm khác nhau, đem lại những kết quả nhất định trên các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Vì lẽ đó, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã trở thành khâu đột phá quan trọng để xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo thành sợi dây gắn kết giữa chính quyền địa phương với nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân tham gia với tinh thần hăng hái nhất, đông đảo nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn ai hết, không ai có thể chiến thắng được lực lượng đó. Đảng ta cũng nhấn mạnh: đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần, trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải xuất phát từ chính những nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, đem lại những điều kiện thuận lợi nhất để người dân có thể bộc lộ những tài năng, tâm huyết của mình với những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Những quyền lợi ấy phải được thực thi trên thực tế, không phải là những khẩu hiệu, lời nói suông của một cá nhân, nhóm người nào. Đó là sự đề cao tính dân chủ, công khai, minh bạch với nhân dân. Có như vậy, mới tạo được niềm tin của nhân dân với Đảng, kích thích, động viên nhân dân hăng say, sáng tạo, tham gia lao động sản xuất, góp ý, hiến kế, tham mưu đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương về những chủ trương, đường lối xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã nhấn mạnh: Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải đặt trong tổng thể cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tức là, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn liền với trách nhiệm; lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Gắn quá trình xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những quy chế, chính sách về thủ tục hành chính không còn phù hợp. Gần đây nhất, ngày 7-1-2016, Bộ Chính trị khoá XI đã ban hành Kết luận 120 về việc tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong đó, khẳng định những giá trị của Chỉ thị 30, yêu cầu tiếp tục quán triệt, thực hiện chỉ thị một cách đồng bộ, đi vào chiều sâu ở tất cả các loại hình cơ sở, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân; xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài. Cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong phạm vi được phân công phụ trách, chú trọng các địa bàn, các cơ sở thực hiện chưa tốt, chưa nghiêm.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời gian qua, việc phát huy Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền địa phương quán triệt và tổ chức triển khai sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội, các hoạt động sinh hoạt, thảo luận, thực hiện ngày đại đoàn kết toàn dân tham gia góp ý, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương dần đi vào nền nếp, chất lượng. Nội dung Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến đời sống nhân dân. Tính công khai, dân chủ ngày càng được thể hiện rõ, từ đó, huy động được sự đóng góp tích cực của nhân dân vào sự phát triển địa phương; tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân có chuyển biến tích cực, gắn với dân, gần dân, sát dân; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ngày càng được củng cố, tăng cường, tạo sự đồng thuận nhất trí cao về tư tưởng và hành động cách mạng, góp phần đưa nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở ở cơ sở vẫn còn hạn chế nhất định như: Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một số địa phương, đơn vị chưa làm tốt vai trò, chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở một số địa phương chưa được phát huy, phương pháp hoạt động còn lúng túng. Nhận thức của bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân ở một số địa phương, cơ quan và đơn vị về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, chưa thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ để bảo đảm đầy đủ, trọn vẹn quyền làm chủ của nhân dân.
Trình độ dân trí giữa các bộ phận dân cư ở thành thị và nông thôn, miền núi, hải đảo có sự chênh lệnh khá lớn, ý thức làm chủ còn hạn chế, sự hiểu biết về dân chủ, làm chủ, về pháp luật chưa được nâng cao; hoạt động giám sát của nhân dân chưa được coi trọng nên nhiều người dân còn thờ ơ với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Có địa phương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở còn theo kiểu phong trào, thực hiện nghiêm túc trong thời gian đầu, sau đó chưa có sự duy trì, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thường xuyên.
Vì vậy, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay cần thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ các cấp về tầm quan trọng của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Nơi nào, chỗ nào đã làm tốt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì cần duy trì và thực hiện tốt hơn nữa. Nơi nào, chỗ nào làm chưa tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra thì cần khắc phục, chấn chỉnh, rút kinh nghiệm để làm tốt hơn. Đội ngũ cán bộ địa phương cần đề cao tinh thần, trách nhiệm của mình trước nhân dân, nhận thức rõ mọi hành động, việc làm của mình đều ảnh hưởng đến uy tín, niềm tin của nhân dân, đều được nhân dân giám sát, phản hồi thông qua những kênh khác nhau. Vì vậy, sự nhận thức đó phải chuyển hóa thành những hành động, thiết thực, cụ thể, không dừng lại ở những lời động viên, an ủi mà phải thông qua những công việc cụ thể, giải quyết có hiệu quả những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, bức xúc trong nhân dân, không có biểu hiện tư lợi, trù dập, ức hiếp nhân dân mà phải hành động với “tâm” trong sáng, lấy hiệu quả công việc làm thước đo, đánh giá. Có như vậy, nhân dân mới yên tâm tìm đến chính quyền địa phương để giãi bày những băn khoăn, trăn trở, khúc mắc trong cuộc sống một cách thấu tình, đạt lý. Phải làm cho việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trở thành công việc thường xuyên, hằng ngày, trở thành nguồn gốc, động lực để quần chúng nhân dân phấn khởi, hồ hởi đẩy mạnh thực hiện các quyết nghị của chính quyền địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội. Các quyết định của chính quyền phải phản ánh đúng ý nguyện chính đáng của dân, thu hút được sự tham gia góp ý của nhân dân và tôn trọng ý kiến chính đáng của nhân dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện vi phạm dân chủ, không thực hiện theo đúng quy định của luật pháp, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương, gây rối mất trật tự an toàn xã hội, lợi ích nhóm, không lắng nghe ý kiến của nhân dân, không thấu hiểu với nỗi khổ của nhân dân mà còn hách dịch, dọa nạt, quát mắng nhân dân.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự có phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng
Cán bộ là gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Do vậy, trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải chú trọng đến phẩm chất, năng lực, đặc biệt, phẩm chất về đạo đức, lối sống phải được đặt lên hàng đầu. Bởi những tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hào nhoáng của lợi ích vật chất đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện tham nhũng, lãng phí, bỏ bê công việc, không thường xuyên xuống cơ sở để nắm bắt những tâm tư, tình cảm, giải quyết kịp thời, hiệu quả nguyện vọng của nhân dân. Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở hiện nay cần quán triệt những quan điểm, đường lối của Đảng về tiêu chuẩn xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín trước quần chúng nhân dân, lấy chất lượng công việc làm thước đo đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên; đặc biệt, xây dựng cho được tình cảm gắn bó máu thịt giữa nhân dân với cán bộ, đảng viên không chỉ trong công việc mà ngay cả trong đời sống hằng ngày cũng phải gần gũi, quan tâm, lo lắng đến nhân dân. Biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, tìm mọi cách để giải quyết những kiến nghị, những ý kiến của nhân dân, đem lại những điều thuận lợi nhất đến với nhân dân, không có biểu hiện lợi ích cá nhân, vun vén cho gia đình, bỏ mặc nhân dân trước những khó khăn, thiếu thốn; càng trong những điều kiện, hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn càng cần đến sự quan tâm, động viên có mặt kịp thời của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, thường xuyên quan tâm chăm lo đến lợi ích của nhân dân
Quan tâm, chăm lo đến lợi ích của nhân dân là mục đích thiêng liêng, cao quý của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Bởi suy cho cùng, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cũng đều vì nhân dân, vì sự ổn định, phát triển của đất nước. Do đó, đối với mỗi giai cấp cần có những chính sách hợp lý, phù hợp để động viên, khuyến khích, tạo hành lang pháp lý thông thoáng trong cơ chế, môi trường làm việc; từ đó, tạo ra những nguồn lực quan trọng ở những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở lợi ích của các giai cấp, giai tầng trong xã hội thì phải gắn kết họ lại với nhau thành khối thống nhất về ý chí, hành động, không để xảy ra tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết, mạnh được yếu thua. Phát huy tính sáng tạo của nhân dân trong các hoạt động hiến kế, đóng góp ý kiến xây dựng vào các dự án, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng nhân dân theo đúng nguyên tắc: Chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và trình độ của nhân dân.
Bốn là, phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, khắc phục các hiện tượng sa sút về phẩm chất đạo đức, lối sống
Trong mọi giai đoạn, thời kỳ cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Sự nhìn nhận, đánh giá của quần chúng nhân dân không chỉ thông qua công việc mà còn thông qua những biểu hiện trong cuộc sống về cung cách sinh hoạt, khả năng gần dân, sát dân, ứng xử, tiếp xúc với nhân dân, lối sống của cán bộ, đảng viên… Khi cán bộ, đảng viên có được những phẩm chất tốt về đạo đức, lối sống thì quyền làm chủ của nhân dân mới được chuyển hóa thành những hành động thiết thực, cụ thể. Ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên không giữ được mình, xa vào tham nhũng, lãng phí, sa sút về phẩm chất đạo đức, lối sống thì nhân dân sẽ không phát huy được quyền làm chủ của mình. Sở dĩ ở một số nơi quần chúng nhân dân mất niềm tin là do đội ngũ cán bộ, đảng viên có biểu hiện của lối sống quan cách, xa dân, nhũng nhiễu, gây bức xúc trong nhân dân. Vì vậy, việc giáo dục, nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là một nội dung trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Các cấp ủy đảng cần có biện pháp thật kiên quyết và tích cực giáo dục, rèn luyện, quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, đấu tranh với các hiện tượng thoái hóa, biến chất, kiên quyết thải loại những phần tử đã biến chất ra khỏi Đảng, làm trong sạch đội ngũ của Đảng và bộ máy nhà nước. Chỉ có như vậy mới lấy lại được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tăng cường được mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm làm cho nội bộ chúng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chúng ta phải luôn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đây là phương thuốc hữu hiệu nhất, hiệu quả nhất để chữa lành những “vết thương” và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù cố tình chia rẽ mối đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở là trách nhiệm nặng nề của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, của người đứng đầu, của tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân.
_______________
1. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 6-1997.
2 Chỉ thị số 30 CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày 18-2-1998.
3. Kết luận số 120 KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày 7/1/2016.
4. Lưu Ngọc Tố Tâm, Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận chính trị, số tháng 4-2017.
Tác giả: Ngô Văn Sỹ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 416, tháng 2-2019