PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN

Phát triển toàn diện nguồn nhân lực quốc gia là nhiệm vụ xuyên suốt và mang tính chiến lược của Đảng ta. Một trong những nguồn lực quan trọng ấy chính là tầng lớp trí thức Việt Nam, đặc biệt là các thế hệ sinh viên - những chủ nhân tương lai, lực lượng quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Để giúp sinh viên có được những kỹ năng mềm ấy, phương pháp dạy học tích cực của giảng viên có vị trí đặc biệt quan trọng.

Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giảng viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức cũng như phát triển tổng hợp các kỹ năng mềm cần thiết cho người học.

Theo từ điển Giáo dục học, “kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy cho dù đó là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ”(1). Có tác giả cho rằng: “Kỹ năng mềm là những kỹ năng không liên quan trực tiếp đến kiến thức chuyên môn mà thiên về mặt tinh thần của mỗi cá nhân nhằm đảm bảo cho quá trình thích ứng với người khác, công việc nhằm duy trì tốt mối quan hệ tích cực và góp phần hỗ trợ thực hiện công việc một cách hiệu quả”(2).

Như vậy, theo cách định nghĩa trên thì thuật ngữ kỹ năng mềm dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống của con người. Đó chính là hành vi ứng xử của mỗi người, là cách tương tác với bạn bè, đồng nghiệp, cách làm việc nhóm. Tồn tại song song với những yêu cầu về mặt chuyên môn thì kỹ năng mềm cũng là nhân tố có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định thành công hay thất bại, hiệu quả hay kém chất lượng trong công việc và hoạt động thực tiễn.

Phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giảng viên và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy. Nó sẽ làm thay đổi vai trò của người thày đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học.

Bức tranh chung về phương pháp giảng dạy tại các cấp học của chúng ta hiện nay là tập trung vào kỹ năng tư duy phân tích, nghĩa là dạy cho người học cách hiểu các khái niệm, thảo luận theo phương pháp định sẵn, loại bỏ những hướng đi sai, tìm ra câu trả lời đúng nhất. Thậm chí, nhiều nơi phương pháp thuyết trình (thày giảng, trò ghi) vẫn chiếm ưu thế, có một bộ phận giảng viên chưa chú trọng đến đến việc giới thiệu, yêu cầu, bắt buộc người học phải tham khảo những tài liệu gì. Phương pháp giảng dạy này đã làm mất đi một hình thái khác của tư duy đó là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo tập trung vào khám phá các ý tưởng, phát triển thành nhiều giải pháp, tìm ra nhiều phương án trả lời đúng thay vì chỉ có một.

Hậu quả của phương pháp giảng dạy cũ dẫn đến sự thụ động của người học trong việc tiếp cận tri thức. Sự thụ động này là nguyên nhân tạo cho người học sự trì trệ, ngại đọc tài liệu, ngại tranh luận, thiếu khả năng thuyết trình, lười tư duy và thiếu tính sáng tạo trong tư duy khoa học. Người học còn quan niệm rằng chỉ cần học những gì giảng viên giảng trên lớp là đủ. Sự giao tiếp trao đổi thông tin trong lớp học hầu như chỉ mang tính một chiều.

Thực tế trên cho thấy, để nâng cao chất lượng đào tạo, việc đổi mới phương pháp giảng dạy đối với các cấp đào tạo ở nước ta là việc làm cấp thiết và cần tiến hành một cách đồng bộ. Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất trong cuộc sống. Vì vậy, vai trò mới của người giảng viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của sinh viên, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có những tài liệu dạy - học mới. Những tài liệu này phải gắn với các phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của sinh viên.

Thực tiễn ở nước ta hiện nay, nhiều cơ sở đào tạo đã và đang chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo tín chỉ. Phương thức đào tạo này mang lại nhiều ưu điểm, đó là sự mềm dẻo và linh hoạt trong việc thiết kế chương trình, sinh viên có thể lựa chọn chương trình học phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Bên cạnh đó phương thức đào tạo theo tín chỉ giảm đi sự nhồi nhét kiến thức của người dạy và tạo điều kiện để người học tự học, tự nghiên cứu, do đó phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Những lợi ích của phương thức đào tạo theo tín chỉ mang lại là rất lớn, tuy vậy nó cũng đặt ra khá nhiều thách thức đối với giảng viên và người học. Việc áp dụng học tín chỉ vào giảng dạy sẽ làm thay đổi cơ bản cách học hiện nay. Ví dụ, người dạy cần tự quản lý về thời gian cũng như làm các công việc một cách độc lập (tiến hành những nghiên cứu trong ngành đào tạo của mình), người học cũng cần phải tập trung vào việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo và cách giải quyết vấn đề.

Nhìn rộng ra các quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới, họ đặc biệt quan tâm đến việc phát triển tư duy sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và làm việc theo nhóm của người học. Các quốc gia này áp dụng nhiều phương pháp khác nhau nhằm khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để người học phát triển khả năng sáng tạo của mình. Một số phương pháp mà chúng ta có thể học tập và áp dụng cho Việt Nam ngay cả ở những trường, đơn vị chưa áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ.

Phương pháp học theo dự án

Đây là mô hình học tập có nhiều khác biệt so với mô hình học tập truyền thống. Phương pháp này yêu cầu các hoạt động học tập phải được thiết kế một cách cẩn thận, mang tính lâu dài và liên quan đến nhiều lĩnh vực học thuật. Đây là mô hình lấy người học làm trung tâm và hòa nhập với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Mục tiêu của phương pháp học theo dự án là để sinh viên học nhiều hơn về một chủ đề chứ không phải là tìm ra những câu trả lời đúng cho những câu hỏi được giáo viên đưa ra. Phương pháp này yêu cầu sinh viên cộng tác với các bạn cùng lớp trong một khoảng thời gian nhất định để giải quyết những vấn đề và cuối cùng trình bày công việc mình đã làm trước giảng viên và các sinh viên khác. Phương pháp này cũng đòi hỏi các sinh viên phải đặt câu hỏi, đồng thời tìm kiếm những mối liên hệ và giải pháp để giải quyết vấn đề. Việc áp dụng phương pháp giảng dạy này sẽ làm thay đổi môi trường học của sinh viên từ chỗ nghe giảng viên nói sang môi trường làm việc, tư duy.

Phương pháp học theo dự án mang đến rất nhiều lợi ích, giúp sinh viên có khả năng kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, tạo nên công cụ hỗ trợ liên ngành để giải quyết vấn đề. Đối với những vấn đề khó, phức tạp, phương pháp này còn cho phép sinh viên khám phá, đánh giá, giải thích và tổng hợp thông tin một cách khoa học.

Vai trò của giáo viên trong phương pháp học theo dự án có rất nhiều thay đổi so với phương pháp truyền thống. Giáo viên không đóng vai trò là người điều khiển tư duy sinh viên mà là người hướng dẫn, huấn luyện, tư vấn và bạn cùng học. Giảng viên phải tập trung vào việc hướng dẫn cho sinh viên, tạo cơ hội để sinh viên phát huy hết khả năng học tập và sáng tạo, đẩy mạnh tinh thần đồng đội, làm việc theo nhóm của các sinh viên.

Quá trình thực hiện phương pháp học theo dự án bao gồm các bước cơ bản như: xác định một vấn đề, dự án phù hợp với sinh viên; liên kết vấn đề với thế giới, môi trường xung quanh của sinh viên; xây dựng các chủ đề xung quanh vấn đề, dự án; tạo cho sinh viên cơ hội để xác định phương pháp và kế hoạch học tập để giải quyết vấn đề; khuyến khích sự cộng tác bằng cách tạo ra các nhóm học tập; yêu cầu tất cả sinh viên trình bày kết quả học tập dưới hình thức một dự án hoặc chương trình.

Phương pháp lấy người học là trung tâm

Đây là phương pháp đặt sinh viên vào vị trí trung tâm của giáo dục. Phương pháp này bắt đầu với việc tìm hiểu các môi trường giáo dục liên quan mà sinh viên xuất phát. Sau đó giảng viên hướng dẫn tiếp tục đánh giá tiến độ học của sinh viên so với mục tiêu học, bằng cách giúp cho người học có được các kỹ năng cơ bản để học tập. Phương pháp này tạo nền tảng cho việc học suốt đời, vì vậy sinh viên phải có trách nhiệm với việc học của bản thân.

Phương pháp người học là trung tâm mang đến nhiều lợi ích, trước hết nó loại bỏ cách dạy và học cũ, khuyến khích sự sáng tạo từ giảng viên và sinh viên một cách tối đa, đồng thời tạo nên sự thân thiện giữa người dạy và người học thông qua việc tăng cường trao đổi, học hỏi qua lại.

Phương pháp này chịu ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản như:

Về bối cảnh, việc học chịu sự tác động của các yếu tố môi trường bao gồm văn hóa, kỹ thuật và các phương pháp giảng dạy. Giáo viên đóng vai trò tương tác chính giữa sinh viên và môi trường học. Những ảnh hưởng văn hóa có thể tạo ra nhiều tác động liên quan mang tính giáo dục như động cơ học, định hướng đối với việc học và cách tư duy. Kỹ thuật và phương pháp dạy phải phù hợp với trình độ kiến thức sẵn có, khả năng nhận biết và các chiến lược tư duy của sinh viên.

Việc học có thể nâng cao khi người học có cơ hội tiếp xúc và cộng tác với nhiều người. Các môi trường học cho phép tạo ra các mối tương tác xã hội, tôn trọng tính đa dạng, khuyến khích lối tư duy linh hoạt. Qua việc tiếp xúc và hợp tác với giáo viên hướng dẫn, cá nhân người học sẽ có cơ hội tiếp thu và tư duy phản ánh, từ đó phát triển trình độ hiểu biết và hoàn thiện bản thân.

Về mục đích của quá trình học, bản chất chiến lược của việc học là đòi hỏi sinh viên phải biết định hướng mục tiêu. Để nắm vững các tri thức, kỹ năng và đạt được các chiến lược tư duy cần thiết cho việc học, sinh viên phải tạo ra các mục tiêu cho bản thân và theo đuổi các mục tiêu đó. Khởi đầu, các mục tiêu ngắn và việc học có thể sơ sài trong một phạm vi nào đó nhưng qua thời gian, mức độ hiểu biết của sinh viên có thể được xác định thông qua trình tự tìm hiểu, trao đổi và tích lũy các tri thức cần thiết.

Phương pháp kỹ thuật tạo ra ý tưởng

Tác giả của phương pháp Brainstorming (tạm dịch là kỹ thuật tạo ra ý tưởng) là Alex Osborn (Hoa Kỳ). Mục đích chính của phương pháp này là giúp người học thoát ra khỏi tư duy theo lối mòn và tạo ra một loạt các ý tưởng mới. Phương pháp này áp dụng phù hợp với nhóm sinh viên.

Qua việc phân tích một số phương pháp giảng dạy có thể nhận định các phương pháp này có rất nhiều sự khác biệt so với phương pháp truyền thống. Trong đó sự khác biệt cơ bản nhất là vai trò của người học và người dạy. Sự thay đổi này đã biến quá trình học của sinh viên từ thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm và kích thích khả năng sáng tạo của họ.

 Với hoạt động giáo dục ở nước ta, vấn đề cốt lõi vẫn là cần tìm giải pháp khắc phục những tồn tại ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Trước hết, cần phải đổi mới đồng bộ các mặt: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giáo viên. Trong đó, cần nhấn mạnh rằng, việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực sẽ là một trong những yếu tố tiên quyết góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và phát triển các kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học một cách hiệu quả (3).

______________

1. Bùi Hiển, Từ điển Giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, 2013, tr.215.

2. Huỳnh Văn Sơn, Khảo sát một vài biện pháp phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên Đại học Sư phạm, Đại học Sư phạm TP.HCM, số 50, 2013., Tạp chí Khoa học

3. Nghiên cứu này được tài trợ bởi nguồn kinh phí khoa học và công nghệ của Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên trong đề tài mã số T2016-80.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 402, tháng 12 - 2017

Tác giả : NGÔ MINH THƯƠNG

;