Lý luận và thực tiễn xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của nguồn lực con người nói chung, nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật quân sự (KHKTQS) chất lượng cao nói riêng. Phương hướng xây dựng quân đội hiện nay tiếp tục đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với nguồn lực này: “Xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; bảo đảm số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ” (1).
Để đáp ứng với phương hướng trên và yêu cầu tác chiến thắng lợi trong tương lai, nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao cần có những đặc trưng sau:
Trước hết, nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao là nguồn lực có phẩm chất chính trị tiêu biểu. Phẩm chất này biểu hiện ở trình độ nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tổ quốc, phương hướng xây dựng quân đội hiện nay. Nguồn lực này còn có tinh thần độc lập, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị - quân sự giao. Hơn nữa, nguồn lực này còn có lý tưởng cao đẹp về nghề nghiệp kỹ thuật quân đội, có tác phong kỷ luật, trách nhiệm cao trong công việc. Cao hơn cả, lý tưởng nghề nghiệp thể hiện ở mong muốn và sẵn sàng vượt qua khó khăn, gian khổ, kể cả nguy hiểm đến tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ công tác kỹ thuật, trực tiếp xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh. Lý tưởng nghề nghiệp đó là động lực chính trị - tinh thần to lớn thúc đẩy hoạt động của nguồn lực này luôn đạt hiệu quả cao.
Nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao còn có trí tuệ, năng lực nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những quy luật, nguyên lý kỹ thuật vào thực tiễn một cách chính xác, nhanh nhạy, đạt hiệu quả cao. Trí tuệ chính là cốt lõi sức mạnh của nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao.
Nguồn lực này còn có chuyên môn kỹ thuật giỏi, kỹ năng thành thạo, năng lực sáng tạo và nhạy bén. Điều này không chỉ được thể hiện ở khả năng tiến hành thành thục hoạt động trên các loại vũ khí trang bị kỹ thuật mà còn ở việc vận dụng thành thạo tri thức lý luận đã có vào giải quyết những vấn đề KHKTQS ở dạng lý thuyết, thiết kế đạt hiệu quả cao. Năng lực sáng tạo là đặc trưng căn bản của nguồn lực này, thành thạo trong việc tìm ra cái mới, vận dụng linh hoạt trong từng điều kiện, ra quyết định nhanh, chính xác.
Nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao còn nhạy bén trong công việc. Đó là sự tự điều chỉnh trong thời gian ngắn về năng lực và hành vi phù hợp với yêu cầu mới của thực tiễn. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự thay đổi liên tục, nhanh chóng, gia tăng tính phức tạp của kỹ thuật, công nghệ nói chung và KHKTQS nói riêng. Phẩm chất nhạy bén giúp cho nguồn lực này có khả năng hấp thu nhanh chóng tri thức, kỹ năng mới, đặc biệt là kỹ năng mềm để vận dụng có hiệu quả cao, trong thời gian ngắn vào các hoạt động chỉ huy, bảo đảm công tác kỹ thuật. Trong điều kiện hiện nay, khi các hoạt động hợp tác quốc tế, trong đó có hợp tác về quốc phòng, ngày càng được tăng cường thì phẩm chất nhạy bén là cơ sở để nguồn lực này có khả năng làm việc tốt trong môi trường quốc tế. Điều này biểu hiện ở kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, ra quyết định độc lập, lựa chọn vấn đề, sự hiểu biết về cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học trong môi trường làm việc quốc tế. Do đó, nguồn lực này luôn thể hiện được năng lực và bản lĩnh trong hợp tác quốc tế, hòa nhập chứ không hòa tan.
Tổng hòa những đặc trưng trên thể hiện rõ bản chất, đồng thời phản ánh sức mạnh, tiềm năng to lớn và vai trò quan trọng của nguồn lực này. Đúng như V.I.Lênin đã khẳng định: “Cuộc chiến tranh hiện đại cũng như kỹ thuật hiện đại thì đòi hỏi phải có nhân lực có chất lượng cao. Trong chiến tranh hiện đại không có lục quân và thủy quân có sáng kiến và giác ngộ thì không thể có thắng lợi được” (2). Với những đặc trưng trên, nguồn lực này đã và đang tiếp tục là đầu tàu, động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển ngành KHKTQS Việt Nam theo hướng độc lập, tự chủ, hiện đại, có vai trò chiến lược trong xây dựng quân đội hiện nay.
Những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao chỉ có thể được hình thành, phát triển khi có một nền tảng vững chắc là những hiểu biết sâu sắc về chính trị xã hội, với thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học. Nền tảng đó do khoa học xã hội và nhân văn (KHXHNV) tạo dựng. KHXHNV có vai trò quyết định trong nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao tại Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay. Vai trò đó thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Trực tiếp cung cấp tri thức, quy định việc hình thành và củng cố phẩm chất tiêu biểu của nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao
KHXHNV trực tiếp cung cấp những tri thức phong phú, là nền tảng cho việc hình thành và củng cố trình độ nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức của nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao. Đó trước hết là những tri thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và lý luận tiến hành công tác đảng, công tác chính trị ở các cơ quan, đơn vị kỹ thuật trong toàn quân. Bên cạnh đó, KHXHNV còn cung cấp cho nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao những tri thức phong phú về con người, văn hóa, lịch sử, xã hội... tạo cơ sở để tiếp nhận có hiệu quả tri thức lý luận ngành, chuyên ngành. Những tri thức trên đóng vai trò là tiền đề để nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, thực sự trưởng thành về mọi mặt, vừa hồng, vừa chuyên, trở thành những sĩ quan tốt, kỹ sư giỏi, đảng viên mẫu mực. Tính đặc thù của các môn KHXHNV là thực hiện vai trò quyết định đó không chỉ thông qua hoạt động lên lớp mà còn bằng chính sự nêu gương của giảng viên. Vì vậy, vai trò của KHXHNV thể hiện liên tục, thường xuyên và có hiệu quả cao hơn.
Từ đó, có thể khẳng định KHXHNV có vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển ở nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao phẩm chất chính trị tiêu biểu, thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học. Không dừng lại ở đó, KHXHNV còn định hướng cho nguồn lực này có năng lực hiện thực hóa lý luận đó vào thực tiễn học tập tại Học viện Kỹ thuật quân sự. Đó là cơ sở để nguồn lực này hình thành nhu cầu, động cơ học tập đúng đắn, thôi thúc họ nỗ lực, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập và nghiên cứu khoa học tại Học viện. Từ những lý luận và kỹ năng do KHXHNV cung cấp, nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao khi ra công tác tại các cơ quan, đơn vị kỹ thuật còn có năng lực tiến hành tốt công tác chỉ huy tham mưu kỹ thuật, phát huy tốt hơn vai trò trong xây dựng cơ quan, đơn vị.
Trực tiếp trang bị tri thức góp phần nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao
KHXHNV trực tiếp giúp cho nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao có nhận thức sâu sắc về những phẩm chất cần có. Rõ ràng là trong chiến tranh hiện đại, nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao cần phải có trí tuệ, hiểu biết sâu, rộng về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị xã hội, có kỹ năng thành thạo, năng lực sáng tạo, nhạy bén. Trong điều kiện hiện nay, nếu xảy ra chiến tranh thì Việt Nam sẽ phải đương đầu với vũ khí thế hệ mới, công nghệ cao và hiện đại của đối phương trong không gian rộng, cường độ cao. Tình hình đó đòi hỏi phải hiện đại hóa quá trình xây dựng quân đội, mà nòng cốt là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao.
Để hình thành và phát triển những phẩm chất đó, vai trò của KHXHNV là rất quan trọng. KHXHNV không chỉ giúp họ nhận thức mà còn trực tiếp cung cấp tri thức lý luận để phát triển trí tuệ, tạo thuận lợi cho việc hình thành năng lực sáng tạo, khả năng nhạy bén. Thông qua các tri thức nền tảng, kết hợp với tri thức lý luận ngành, chuyên ngành và hoạt động thực tiễn thì nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao mới có thể nhận thức, chuyển hóa thành những phẩm chất đặc trưng của bản thân theo đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện.
Tiên phong trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận
Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay hết sức gay go, phức tạp, là mặt trận hàng đầu trong đấu tranh giai cấp. Trong cuộc đấu tranh này, vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên rất quan trọng, trước hết là vai trò nòng cốt, tiên phong của đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn KHXHNV. Hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục tấn công mạnh mẽ vào đội ngũ cán bộ quân đội nói chung và cán bộ kỹ thuật quân sự nói riêng thông qua chiến lược diễn biến hòa bình. Thực hiện tốt vai trò của mình, KHXHNV sẽ giúp cho nguồn nhân lực KHKTQS chất lượng cao luôn có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, không dao động, tuyệt đối trung thành với Đảng, tổ quốc, nhân dân.
Vai trò nòng cốt, tiên phong của đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn KHXHNV trong đấu tranh tư tưởng, lý luận thể hiện ở những hoạt động, nội dung chủ yếu như: phát hiện, phê phán, ngăn chặn, khắc phục ảnh hưởng của những quan điểm, tư tưởng thù địch, phản động, sai trái thông qua nghiên cứu vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và bọn phản động; chủ động, kiên quyết đấu tranh trực diện với các quan điểm, tư tưởng sai trái để bảo vệ, khẳng định, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giữ vững niềm tin, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Để nâng cao vai trò của KHXHNV trong đào tạo tại Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay, cần thực hiện tốt hơn một số vấn đề:
Nâng cao hơn nữa nhận thức của các tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy và đội ngũ học viên về vị trí, tầm quan trọng của các môn KHXHNV, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đào tạo. Từ nhận thức tiến tới thiết kế nội dung các môn KHXHNV phù hợp hơn cả về thời lượng cũng như sắp xếp trong tiến trình đào tạo.
Tổ chức biên soạn mới, bổ sung giáo trình, tài liệu giảng dạy, hướng dẫn học tập các môn KHXHNV vừa đáp ứng yêu cầu của Bộ GDĐT, Tổng cục Chính trị, vừa phù hợp với đặc thù của đào tạo ngành kỹ thuật quân sự. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo các môn KHXHNV như phương tiện kỹ thuật, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo... Ngoài giảng dạy bằng lý thuyết như hiện nay thì cần tăng cường cả về lượng và chất các hình thức học tập ngoại khóa, bố trí hợp lý về thời gian trong tiến trình đào tạo và phù hợp về nguồn kinh phí.
Bên cạnh đó, Học viện cần có cơ chế, chính sách phù hợp hơn nhằm tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy các môn KHXHNV, tiếp tục tiến hành một cách công khai, minh bạch. Đồng thời, ngoài việc cử đi đào tạo sau đại học trong nước thì Học viện cần nghiên cứu, tạo cơ chế phù hợp để cho đội ngũ này được đi bồi dưỡng ngắn hạn ở nước ngoài thông qua các hình thức hợp tác quốc tế.
______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.312.
2. V.I.Lênin, Hải cảng Lữ Thuận thất thủ, Toàn tập, tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.191.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 396, tháng 6-2017
Tác giả : ĐẶNG TRƯỜNG MINH - NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN