Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Với bờ biển dài khoảng trên 3.260 km, diện tích biển rộng trên 1 triệu km2, chiếm 30% diện tích biển Đông, khoảng 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, biển, đảo nước ta luôn giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam, trong đó, Bộ đội Hải quân giữ vai trò là lực lượng nòng cốt. Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, trong những năm qua, Bộ đội Hải quân đã tiến hành đồng thời nhiều hoạt động, trong đó hoạt động đối ngoại quốc phòng đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Đối ngoại quốc phòng là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, nâng cao vị thế của Nhà nước trên trường quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân là tổng thể các hoạt động của Hải quân nhân dân Việt Nam trong tham mưu, phối hợp và tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại quốc phòng của Đảng, Nhà nước, Quân đội theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao, nhằm góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Trong những năm qua, hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân đã thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế với tinh thần Việt Nam “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” (1). Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh hoạt động đối ngoại quốc phòng trên các mặt như: thực hiện công tác phối hợp tuần tra chung trên biển; tổ chức các chuyến thăm giao lưu hữu nghị; duy trì đường dây nóng; phối hợp diễn tập tìm kiếm cứu nạn với Hải quân các nước, nhất là các nước có vùng biển liền kề được tổ chức một cách chặt chẽ, đạt hiệu quả cao. Thông qua các hoạt động này, Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam đã mang thông điệp hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập đến với hải quân các nước, góp phần tăng cường sự hiểu biết, tin cậy, giảm thiểu bất đồng trong giải quyết những vấn đề “nhạy cảm”, kiểm soát nguy cơ xung đột trên biển, làm cho hải quân các nước ngày càng hiểu và tin cậy đất nước và con người Việt Nam, nâng vị thế của quân chủng, quân đội và đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, thông qua hoạt động đối ngoại, hải quân nhân dân Việt Nam đã triển khai hàng loạt các dự án, nhằm hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; sửa chữa, đóng mới tàu thuyền, nâng cấp vũ khí trang bị, các cơ sở huấn luyện kỹ thuật, bảo đảm kỹ thuật; đồng thời, tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước, chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng và phát triển lực lượng hải quân các nước, để xây dựng hải quân Việt Nam, nhất là lực lượng mới như: không quân hải quân, tàu ngầm… phục vục cho sự nghiệp xây dựng và phát triển Hải quân nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình biển Đông, Đảng, Nhà nước ta chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp ở biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, tuân thủ các nguyên tắc và cam kết đã thỏa thuận, không để ảnh hưởng đến tổng thể quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc cũng như hòa bình phát triển ở khu vực. Do đó, hoạt động đối ngoại của Bộ đội Hải quân càng trở nên quan trọng. Để phát huy những kết quả đã đạt được, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, cần tập trung vào một số nội dung giải pháp chủ yếu sau:
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại quốc phòng. Cần làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo đúng tình hình quốc tế, khu vực, đặc biệt là diễn biến trên biển Đông; nắm chắc vai trò quốc tế của các cường quốc và thấy được sự tác động, chi phối của các cường quốc đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam trên hướng biển, đảo; từ đó, tham mưu cho Bộ Quốc phòng những chủ trương, chính sách đối ngoại quốc phòng đúng đắn. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân phải thấu triệt nguyên tắc độc lập, tự chủ như Bác Hồ đã dạy: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào” (2). Đồng thời, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, nhưng phải khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ quốc tế, nhất là xử lý mối quan hệ trên biển, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực. Bên cạnh đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần mang tính toàn diện nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm và hướng vào khắc phục những khâu yếu, mặt yếu; coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới tư duy của cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị nhất là ở các đơn vị cơ sở về tầm quan trọng của công tác đối ngoại quốc phòng của Bội đội Hải quân hiện nay.
Hoàn thiện các quy chế, quy định về hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương. Phạm vi, nội dung hoạt động đối ngoại quốc phòng ngày càng được mở rộng và phong phú, tính chất công tác đối ngoại quốc phòng ngày càng phức tạp. Vì vậy, các quy chế, quy định về quản lý hoạt động đối ngoại quốc phòng đòi hỏi phải được hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đối ngoại quốc phòng. Hoàn thiện các quy chế, quy định về quản lý hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương phải phù hợp với nhiệm vụ mới, bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất, chặt chẽ các hoạt động đối ngoại và từng bước đưa hoạt động đối ngoại quốc phòng trong toàn quân vào nền nếp, chính quy, hiện đại. Các quy chế, quy định phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, với thông lệ quốc tế, các quy chế ngoại giao nói chung. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân mở rộng quan hệ quốc tế, mang lại lợi ích cho đất nước, cho quân đội, ngăn chặn được những việc làm sai trái, lợi dụng hoạt động đối ngoại để mưu cầu lợi ích riêng hoặc làm tổn hại đến uy tín, an ninh, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bội đội Hải quân hiện nay. Trên cơ sở đường lối quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI; Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Luật pháp và tập quán quốc tế, để đổi mới toàn diện nội dung, đa dạng hình thức hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân. Trên bình diện song phương, với cơ sở các cơ chế hợp tác đã có như: tuần tra chung, tham vấn song phương và trao đổi đoàn các cấp, cần đẩy mạnh giao lưu giữa các vùng Hải quân Việt Nam với các đơn vị tương ứng với hải quân các nước; đẩy mạnh giao lưu sĩ quan trẻ hải quân các nước để tìm hiểu về văn hóa, truyền thống đất nước, con người nói chung và hải quân mỗi nước nói riêng. Trên bình diện đa phương, cần tăng cường hoạt động diễn tập tham gia khắc phục thảm họa thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên biển; hội thảo an ninh hàng hải quốc tế; duyệt binh hàng hải quốc tế… nhằm nâng cao vai trò, vị thế của đất nước, Quân chủng hải quân, Quân đội trên trường quốc tế. Để nâng cao hiệu quả các hoạt động đó, cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, mỗi cán bộ, chiến sĩ, nhất là cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng, phải nêu cao trách nhiệm, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có chất lượng các hoạt động đối ngoại theo chức trách, nhiệm vụ. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung công tác đối ngoại trên biển, đảo, tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý các hoạt động đối ngoại quốc phòng của đơn vị; phối hợp, kết hợp các hoạt động đối ngoại quốc phòng của đơn vị với hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, ngoại giao nhân dân. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bí mật quân sự, bí mật quốc gia, phòng chống “diễn biến hòa bình”.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác đối ngoại quốc phòng của Bội đội Hải quân trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ quân đội có vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng. Vì vậy, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, chế độ Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, phải có trình độ chuyên môn cao, giỏi ngoại ngữ, nắm vững quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước; hiểu biết sâu, rộng thông lệ, luật pháp quốc tế về biển và văn hóa, phong tục, tập quán của các nước. Để thực hiện điều đó, cơ quan, đơn vị thực hiện chức năng, nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng của quân chủng cần làm tốt công tác quy hoạch, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Mặt khác, chủ động phối hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng trong nước với đào tạo nước ngoài, nhất là ở các nước có trình độ tiên tiến, hiện đại về hải quân nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và cơ bản lâu dài. Đồng thời, chú trọng công tác bồi dưỡng tập huấn tại chỗ; khuyến khích việc tự học, tự bồi dưỡng thông qua hoạt các hoạt động thực tế để nâng cao trình độ chuyên môn, nhất là trình độ ngoại ngữ. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác sơ kết, tổng kết và rút kinh nghiệm về công tác đối ngoại quốc phòng nhằm bổ sung, phát triển nội dung, biện pháp đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân.
Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết và rút kinh nghiệm về công tác đối ngoại quốc phòng của Bội đội Hải quân trong tình hình mới. Công tác sơ kết, tổng kết cần được tiến hành một cách nghiêm túc, bám chắc vào mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch hành động thực hiện các nghị quyết của trên về hoạt động đối ngoại; đánh giá một cách khách quan, toàn diện, thực chất kết quả thực hiện chỉ rõ những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, cũng như nguyên nhân chủ quan và khách quan của những tồn tại, hạn chế đó; phân tích một cách khoa học, rút ra các bài học kinh nghiệm và những vấn đề phát sinh, cần bổ sung, điều chỉnh trong thời gian tới.
Chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, là một bộ phận quan trọng của chủ quyền quốc gia, đó là quyền sở hữu, quản lý, sử dụng và bảo vệ các vùng biển, đảo theo pháp luật của Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Vì vậy, trên cơ sở nắm chắc chủ trương, đường lối, chính sách và nguyên tắc đối ngoại của Đảng, Nhà nước, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tạo ra những tác động đồng bộ, toàn diện đối với hoạt động đối ngoại quốc phòng của Bộ đội Hải quân, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong mọi tình huống.
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.153.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.162.
Tác giả: Nguyễn Hữu Cần
Nguồn: Tạp chí VHNT số 425, tháng 11-2019