Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Thực tiễn hơn 87 năm hoạt động lãnh đạo của Đảng cho thấy: việc tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng nước ta.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”(1). Người căn dặn: để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên tốt. Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng đội ngũ đảng viên; gắn xây dựng, củng cố tổ chức đảng với xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trong từng nhiệm kỳ Đảng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã cụ thể hóa việc chỉ đạo công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, đưa ra các mục tiêu, giải pháp thực hiện. Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng những kế hoạch, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng để thực hiện, nhằm tăng cường xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức cơ sở đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Do đó, đội ngũ đảng viên đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước được chuyển biến theo hướng tích cực, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; tỷ lệ đảng viên ở lứa tuổi thanh niên, đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, đảng viên trong các tôn giáo đều tăng lên qua các năm; tuổi đời bình quân của đội ngũ đảng viên ngày càng được trẻ hóa. Thực tiễn qua hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước cho thấy: sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên còn những hạn chế. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu; tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tùy tiện, vô nguyên tắc; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân, chấp hành kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công tác, chạy tội, chạy bằng cấp... còn xảy ra ở nhiều nơi; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, còn những diễn biến phức tạp, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự trong sạch vững mạnh vừa là đòi hỏi tất yếu, vừa là yêu cầu cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển, sàng lọc đảng viên”(2)
Để thực hiện được những nội dung, yêu cầu trên, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp cần chú trọng quán triệt và thực hiện tốt những biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, ý nghĩa của đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Tập trung sức để xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh; nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng; phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và tính tự nguyện, tự giác của người đảng viên, để mọi đảng viên vững vàng trước những khó khăn, thử thách của cách mạng.
Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, làm cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên phải gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức, là văn minh xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, phải thật sự mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng, làm cơ sở để mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội; phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đó là, vừa đẩy mạnh kết nạp vào Đảng những quần chúng thật sự ưu tú, tiêu biểu và có đủ tiêu chuẩn, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng viên. Đây là hai mặt có quan hệ biện chứng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong công tác phát triển đảng viên, cần bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với quần chúng ưu tú để thấy rõ động cơ, mục đích vào Đảng trước khi xem xét kết nạp vào Đảng; chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ, kiến thức các mặt của đội ngũ đảng viên; khắc phục tình trạng chạy theo số lượng. Bên cạnh đó, phải làm tốt việc sàng lọc đội ngũ đảng viên, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh những đảng viên thoái hóa về chính trị, tư tưởng, vi phạm đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung nhằm nâng cao chất lượng đảng viên; cần tập trung đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về tư tưởng chính trị; về trình độ kiến thức và năng lực công tác thực tiễn; về phẩm chất, đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch, lành mạnh; về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quán triệt tốt những nội dung cơ bản về xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ luật đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thứ năm, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Cấp ủy các cấp cần thực hiện đúng các quy định, nguyên tắc, thủ tục, quy trình về công tác quản lý hồ sơ đảng viên; giới thiệu sinh hoạt đảng, giới thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với đảng ủy, chi ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; thực hiện nghiêm túc việc chuyển sinh hoạt đảng đối với những đảng viên nghỉ hưu về sinh hoạt với tổ chức đảng nơi cư trú, tích cực sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cơ sở dữ liệu về đảng viên.
Thứ sáu, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở. Cấp ủy cấp trên phải hướng về cơ sở và đi sâu, đi sát cơ sở; thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác đảng viên ở cơ sở; phân công ủy viên thường vụ, cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở; có kế hoạch, quy định thời gian làm việc với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị ở cơ sở để nắm chắc tình hình, cùng cơ sở tháo gỡ khó khăn. Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác đảng viên, qua đó chấn chỉnh và đưa công tác đảng viên vào nề nếp; thực hiện việc giao cấp ủy cơ sở tự kiểm tra, rà soát các mặt công tác đảng viên và báo cáo kết quả với cấp ủy cấp trên.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở, nền tảng nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 395, tháng 5-2017
Tác giả : NGUYỄN THẾ THÁI